Xuất khẩu gạo gặp khó khăn
Gạo xuất khẩu chưa dứt xu hướng giảm giá
Chính phủ Ấn Độ vừa chính thức gỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo 100% tấm. Quyết định trên được đưa ra để ứng phó với tình trạng lượng hàng tồn kho đạt mức cao kỷ lục vào đầu tháng 2-2025 (mức tồn kho gấp gần 9 lần so với mục tiêu của Chính phủ).
Ấn Độ đã ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo 100% tấm vào tháng 9-2022. Đến tháng 7-2023, nước này tiếp tục cấm xuất khẩu gạo trắng phi basmati để đảm bảo nguồn cung và giá cả trong nước ổn định.
Một tháng sau đó, Ấn Độ áp thuế xuất khẩu 20% đối với gạo đồ (loại gạo thu được từ thóc được ngâm nước nóng hoặc sấy trong hơi nước rồi phơi khô). Các động thái này đã đẩy giá gạo ở châu Á tăng lên mức cao nhất trong 15 năm từ khoảng 450 USD/tấn lên tới mức đỉnh điểm là 700 USD/tấn đối với gạo 5% tấm.
Tuy nhiên, ngày 28-9-2024, Chính phủ Ấn Độ đã đình chỉ lệnh cấm xuất khẩu gạo đối với gạo trắng không phải gạo basmati, đồng thời, nước này cũng giảm thuế xuất khẩu gạo lứt và gạo đồ từ 20% xuống còn 10%, thị trường lúa gạo thế giới bước dần vào chu kỳ giá giảm.
Mức giảm mạnh nhất được ghi nhận từ khoảng cuối năm 2024, đầu năm 2025 đến nay. Trong đó, gạo 5% tấm của Việt Nam và Thái Lan đã giảm từ 38 - 45%. Với Việt Nam, giá mặt hàng gạo 5% đã giảm từ mức 680 - 700 USD/tấn và hiện đã giảm mạnh xuống còn 390 - 400 USD/tấn. Đây là mức giảm lớn chưa từng có tiền lệ.
Việc Ấn Độ gỡ bỏ hoàn toàn các biện pháp hạn chế xuất khẩu gạo khiến nguồn cung mặt hàng này tăng mạnh, trong khi nhu cầu của thị trường giảm, chưa có dấu hiệu phục hồi trong thời gian ngắn gây áp lực với giá gạo toàn cầu.
Theo các chuyên gia, phân khúc gạo xuất khẩu của Việt Nam và Ấn Độ là khác nhau. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu gạo chất lượng cao, sang thị trường Philippines, Indonesia và Malaysia, trong khi Ấn Độ chủ yếu là gạo phẩm cấp thấp và xuất khẩu sang châu Phi.
Do đó, cạnh tranh giữa gạo Việt Nam và Ấn Độ không trực tiếp. Tuy vậy, việc Ấn Độ xuất khẩu gạo trở lại cũng ảnh hưởng nhất định đến giá gạo xuất khẩu của Việt Nam.
Mặt khác, Việt Nam đang bước vào vụ thu hoạch lúa gạo lớn nhất trong năm – vụ Đông Xuân. Nhờ thời tiết thuận lợi nên sản lượng thóc gạo dồi dào. Do đó, nhiều dự đoán đưa ra giá gạo khó quay lại mức 500 USD một tấn.
Gỡ khó cho gạo xuất khẩu
Tại cuộc họp mới đây về xuất khẩu lúa gạo do Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, ông Đỗ Hà Nam- Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp tiếp cận được vốn, có khả năng trữ hàng, từ đó chủ động hơn về giá hàng hóa;
Tăng hạn mức cho các doanh nghiệp xuất khẩu, các doanh nghiệp cung ứng gạo, kéo dài thời gian cho vay mua gạo để từ đó có thể bán cho các thị trường với giá tốt hơn cũng như kéo dài thời hạn trữ hàng, tránh tình trạng bán hàng ồ ạt. Thêm nữa, đề xuất lãi vay cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở mức thấp nhất có thể.
Ngoài ra, VFA đề nghị Bộ Công Thương đưa ra quy định giá sàn về xuất khẩu gạo theo Nghị định 107/2018/NĐ-CP với mức giá Hiệp hội Lương thực Việt Nam đề nghị là 500 USD/tấn (giá FOB). Đồng thời, tăng cường kiểm tra các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, nhất là các doanh nghiệp chỉ đi thu mua mà không tham gia vào khâu chế biến, hoặc các doanh nghiệp chỉ tham gia thương mại mà không tham gia vào thị trường xuất khẩu.
Trả lời doanh nghiệp về kiến nghị này, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân cho biết, Bộ Công Thương đang nghiên cứu kích hoạt giá sàn. Tuy nhiên, Bộ Công Thương cũng đang tính đến việc kích hoạt dự trữ, đảm bảo công tác bình ổn.
Lãnh đạo Bộ Công Thương cũng nhấn mạnh Bộ này sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác đàm phán mở cửa thị trường mới bên cạnh thị trường truyền thống để đảm bảo xuất khẩu gạo bền vững trong dài hạn.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, khối lượng xuất khẩu gạo tháng 2-2025 ước đạt 560 nghìn tấn với giá trị đạt 288,2 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo 2 tháng đầu năm 2025 đạt 1,1 triệu tấn và 613 triệu USD, tăng 5,9% về khối lượng nhưng giảm 13,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Philippines là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 38,6%. Bờ Biển Ngà và Gana là hai thị trường lớn tiếp theo với thị phần tương ứng là 15,9% và 12,3%.
So với cùng kỳ năm trước, giá trị xuất khẩu gạo tháng 1-2025 sang thị trường Philippines giảm 35,5%, trong khi thị trường Bờ Biển Ngà tăng 8,6 lần, thị trường Gana tăng 4,1 lần.
Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu gạo tăng mạnh nhất ở thị trường Thổ Nhĩ Kỳ với mức tăng 600,7 lần và giảm mạnh nhất ở thị trường Campuchia với mức giảm 39,3%.
Hà Linh