Hội thảo quốc tế “Xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ” do Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương), Cục Công nghiệp, Cục Đầu tư nước ngoài, Ban Quản lý Khu Kinh tế Hải Phòng, Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tổ chức ngày 5/8.
Sự kiện đã thu hút hơn 200 đại biểu trong nước và quốc tế, trong đó có đại diện hơn 25 đại sứ quán, tổ chức quốc tế, hiệp hội ngành hàng, nhà đầu tư nước ngoài. Hội thảo không chỉ là nơi chia sẻ thông tin cập nhật về môi trường đầu tư, chính sách ưu đãi, mà còn đóng vai trò là cầu nối trực tiếp giữa các địa phương, khu công nghiệp, doanh nghiệp Việt Nam với cộng đồng doanh nghiệp FDI đang tìm kiếm cơ hội mở rộng sản xuất tại khu vực Đông Nam Á.
Ông Vũ Bá Phú- Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Uyên Hương/Bnews/vnanet.vn
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Vũ Bá Phú – Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương nhấn mạnh rằng, Việt Nam đang nổi lên như một trung tâm sản xuất chiến lược mới trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu không ngừng tái cấu trúc. Nắm bắt xu thế này, Chính phủ Việt Nam đã đặc biệt chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ với nhiều chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài cùng tham gia vào hệ sinh thái sản xuất công nghiệp, từ đó gia tăng tỷ lệ nội địa hóa và giảm phụ thuộc vào nguồn cung nhập khẩu.
Theo ông Phú, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hiện đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam. Riêng trong năm 2024, ngành công nghiệp chế biến – chế tạo đã thu hút hơn 25,5 tỷ USD vốn FDI đăng ký mới, chiếm gần 67% tổng lượng vốn FDI vào Việt Nam. Các lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử, cơ khí chính xác, phụ tùng ô tô – xe máy điện đang trở thành tâm điểm thu hút của nhiều tập đoàn đa quốc gia, thể hiện xu hướng dịch chuyển chuỗi giá trị sản xuất sang những quốc gia có chi phí cạnh tranh và môi trường đầu tư ổn định như Việt Nam.
Từ kết quả khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO), có đến 56% doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam dự kiến sẽ mở rộng đầu tư trong vòng 1 đến 2 năm tới. Gần một nửa trong số đó đang hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và đặc biệt ưu tiên việc mở rộng chuỗi cung ứng tại chỗ nhằm cắt giảm chi phí logistics và nâng cao tính chủ động trong sản xuất.Thực tế hiện nay cho thấy, tại Việt Nam có khoảng 1.700 doanh nghiệp FDI đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, chiếm khoảng 40% tổng số doanh nghiệp của ngành. Sự hiện diện mạnh mẽ này thể hiện mức độ quan tâm ngày càng tăng của các nhà đầu tư nước ngoài và khẳng định vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.Tuy nhiên, ông Vũ Bá Phú cũng chỉ ra rằng mặc dù có nhiều tiến bộ, nhưng tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp chủ lực vẫn còn ở mức khiêm tốn. Các ngành như dệt may – da giày hiện chỉ đạt tỷ lệ nội địa hóa khoảng 45–50%, ngành cơ khí chế tạo đạt khoảng 15–20%, trong khi ngành lắp ráp ô tô vẫn ở mức 5–20%. Khoảng 6.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu linh kiện, phụ tùng phục vụ sản xuất trong nước. Đặc biệt, nếu chỉ tính riêng các doanh nghiệp nội địa, tỷ lệ nội địa hóa còn khiêm tốn hơn, ở mức 15,7%.Theo ông Vũ Bá Phú, điều này cho thấy dư địa phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam còn rất lớn. Song song với việc thu hút FDI có chọn lọc, Chính phủ cần tập trung hỗ trợ doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực sản xuất, tiêu chuẩn sản phẩm, khả năng quản trị và mức độ sẵn sàng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Việc tạo dựng mối liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước sẽ là yếu tố then chốt giúp tăng khả năng cạnh tranh, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và lan tỏa hiệu quả đầu tư trong ngành.
Ông Phạm Thanh Bình- Giám đốc Trung tâm Xúc tiến, thông tin và hỗ trợ đầu tư phía Bắc- Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính). Ảnh: Uyên Hương/Bnews/vnanet.vn
Tại hội thảo, ông Phạm Thanh Bình- Giám đốc Trung tâm Xúc tiến, thông tin và hỗ trợ đầu tư phía Bắc- Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính) cũng chia sẻ những thông tin tích cực về môi trường đầu tư tại Việt Nam. Trong 6 tháng đầu năm 2025, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 21,52 tỷ USD, tăng 32,6% so với cùng kỳ năm ngoái; vốn thực hiện đạt 11,72 tỷ USD, tăng 8,1%. Lũy kế đến nay, Việt Nam đã thu hút vốn đầu tư từ 151 quốc gia và vùng lãnh thổ, với hơn 43.700 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký đạt khoảng 519,54 tỷ USD.
Trong số đó, Nhật Bản hiện là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ ba tại Việt Nam với 5.603 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký đạt 79,47 tỷ USD. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai quốc gia tiếp tục được mở rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong thương mại, đầu tư, công nghiệp chế biến – chế tạo, hạ tầng và chuyển đổi số. Sự hợp tác bền chặt giữa cộng đồng doanh nghiệp hai nước đóng góp tích cực vào mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững và nâng tầm chuỗi giá trị khu vực.
Chính phủ Việt Nam xác định công nghiệp hỗ trợ là nền tảng thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chính, đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và hội nhập sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Với định hướng đó, nhiều chính sách ưu đãi và hỗ trợ đã được ban hành và triển khai mạnh mẽ, nhằm khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực này.Theo Luật Đầu tư 2020 và các văn bản hướng dẫn thi hành, công nghiệp hỗ trợ thuộc danh mục ngành nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư. Các doanh nghiệp đầu tư mới vào lĩnh vực này có thể được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm, giảm 50% trong 9 năm tiếp theo và áp dụng mức thuế ưu đãi 10% trong vòng 15 năm. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng được miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, vật tư chưa sản xuất được trong nước phục vụ dự án, đồng thời được hưởng các ưu đãi về tiền thuê đất, tiếp cận tín dụng ưu đãi từ Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia...
Quang cảnh hội thảo. Ảnh:Uyên Hương/BNEWS/TTXVN
Song song với các chính sách về ưu đãi tài chính, Việt Nam cũng đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, triển khai hệ thống một cửa quốc gia và một cửa ASEAN, rút ngắn thời gian cấp phép, thông quan hàng hóa. Việc đầu tư phát triển hạ tầng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu chuyên ngành về công nghiệp hỗ trợ tại các vùng kinh tế trọng điểm cũng được đẩy mạnh.
Một điểm sáng đáng chú ý là sự chú trọng phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật cao thông qua các chương trình đào tạo liên kết giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo, nhằm cung ứng lực lượng lao động chất lượng cho các ngành như cơ khí chính xác, điện tử, chế tạo…
Không chỉ tập trung vào chính sách, hội thảo còn là dịp để các địa phương, khu công nghiệp và cụm công nghiệp lớn như Khu công nghiệp DEEP C, Khu công nghiệp Amber Yên Quang… trực tiếp giới thiệu tiềm năng, định hướng phát triển và các chính sách ưu đãi đặc thù nhằm thu hút đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ. Những thông tin cụ thể về quy hoạch, hạ tầng, kết nối giao thông, khả năng cung ứng nhân lực đã giúp nhà đầu tư có cái nhìn trực quan và đưa ra quyết định hợp tác hiệu quả hơn.
Các nội dung chuyên đề được trình bày tại Hội thảo cũng cung cấp một bức tranh toàn diện về xu hướng dòng vốn đầu tư, đặc biệt là từ Nhật Bản và các nền kinh tế có công nghệ cao. Nhiều chuyên gia, nhà quản lý và đại diện doanh nghiệp đã cùng nhau phân tích thực trạng, đánh giá xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng, đưa ra khuyến nghị về chiến lược phát triển bền vững, thích ứng linh hoạt với các biến động toàn cầu.Từ diễn đàn đối thoại mở, các đại biểu trong nước và quốc tế đã khẳng định tầm quan trọng của việc xây dựng hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam không chỉ là nền tảng công nghiệp hóa quốc gia, mà còn là động lực lan tỏa đổi mới công nghệ, sáng tạo và hội nhập kinh tế sâu rộng.
Uyên Hương/Bnews/vnanet.vn