Thực ra, ngữ liệu chính xác phải là “Én bay cao...”, chứ không phải “Yến bay cao...”.
“Yến” hay “én” đều là từ Việt gốc Hán bắt nguồn từ một chữ có tự hình là 燕 (Chữ Nôm mượn nguyên chữ yến 燕 để ghi âm én). Hiện tượng biến âm (yến én) theo quy luật bớt âm đầu ta còn thấy trong nhiều trường hợp khác, như: công 公 ông; tất 必 ắt; cẩu 苟 ẩu (cẩu thả, ẩu)... Còn Ê biến thành E (yến én), như: yêu 腰 eo (eo lưng); yểm 掩 ém (ém nhẹm); yểu 殀 ẻo (chết yểu chết ẻo)...
Trở lại chuyện “yến” và “én”.
Về mặt sinh học, chim yến khác chim én; về mặt ngôn ngữ, én cũng không đồng nghĩa với yến.
1- Điểu học phân biệt “yến” và “én”
- Chim yến thuộc bộ Yến (Apodiformes) gồm khoảng 400 loài, chia làm hai phân bộ, phân bộ Yến (Apodidae) và phân bộ Chim ruồi (Trochili). Chim yến (chi Aerodramus) hay còn gọi là yến hàng hay yến hang (dịch từ huyệt yến 穴燕) làm tổ trên vách đá vùng ven biển, sản ra yến sào.
Lưu ý, cùng phân Bộ Apodidae với yến hàng (Aerodramus) còn có yến cỏ (Collocalia). Yến cỏ trông gần giống yến hàng, nhưng làm tổ không hoàn toàn bằng nước bọt mà lẫn nhiều tạp chất như cỏ khô, lông vũ, nên giá trị dinh dưỡng không cao.
Trong tiếng Hán, chim yến (chi Aerodramus) có tên là kim ti yến 金絲燕 (yến tơ vàng). Hán ngữ đại từ điển mô tả kim ti yến: “Thân hình nhỏ, lông màu nâu xám, cánh nhọn và dài, bốn ngón chân đều hướng về phía trước. Chúng sống trên các đảo nhiệt đới, bắt côn trùng nhỏ làm thức ăn. Ở họng có tuyến nhầy phát triển, dịch nhầy tiết ra gặp không khí thì đông cứng lại, là nguyên liệu chính để chim yến làm tổ. Tổ của kim ti yến chính là yến sào - một loại thực phẩm quý”. Sách này cho rằng, chim yến nuốt rong biển cùng cá tôm nhỏ chưa tiêu hóa hết hòa quyện với nước bọt rồi nhả ra, kết lại thành tổ, gọi là yến sào 燕巢 (chữ Hán sào 巢 nghĩa là tổ).
- Còn chim én thuộc họ Nhạn (Hirundinidae) gồm khoảng 75 loài. Ở Việt Nam, én có 10 loài, thuộc 3 giống. Trong tiếng Hán, chim én gọi là yến tử 燕子 hay thường gọi là gia yến 家燕 (én nhà).
Chim én (yến tử) không dùng nước bọt làm tổ như yến (kim ti yến) mà làm bằng bùn đất. Thế nên mục “yến tử”, Hán ngữ đại từ điển dẫn thơ Đỗ Phủ: “Nê dung phi yến tử, Sa noãn thụy uyên ương - 泥融飛燕子,沙煖睡鴛鴦” (Mùa xuân chim én ngậm bùn bay xây tổ; Uyên ương ngủ say trên cát ấm).
Én chủ yếu sống ở vùng nông thôn hoặc đồng cỏ trung du, miền núi, nơi có nguồn thức ăn là côn trùng phong phú.
Chim én có đuôi chẻ rõ ràng hơn chim yến. Lúc bay, yến khá giống én (nhạn). Tuy nhiên, yến không giang rộng cánh như én; yến thường bay thẳng và nhanh, ít khi quành như én, và lúc quành thì vòng rộng. Yến bay nhanh hơn én, và luôn kêu lít rít khi bay.
2- Ngôn ngữ phân biệt “yến” và “én”
Trong ngôn ngữ thì khi nào dùng “yến”, khi nào dùng “én”?
- “Yến” thường đi với “yến anh” hoặc “yến oanh” (chim yến và chim anh/oanh, thường bay và hót ríu rít từng đàn vào mùa xuân): 1- ví cảnh trai gái dập dìu, tấp nập (Gần xa nô nức yến anh/ Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân - Kiều; Ngày nào đông đúc yến oanh?/ Kẻo còn như cuốc cầm canh mùa hè - Truyện Thạch Sanh); 2- ví quan hệ trai gái tự do, phóng túng: Điều đâu lấy yến làm oanh/ Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì; Mây mưa đánh đổ đá vàng/ Quá chiều nên đã chán chường yến anh - Kiều; Dám đâu học thói yến oanh/ Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương - Bích Câu kì ngộ).
- “Én” thường được dùng một mình khí gắn với mùa xuân. Én bay theo kiểu ngoặt đi, ngoặt lại (quành lại đột ngột) để bắt côn trùng (“yến” không có đặc điểm này). Hình ảnh này giống cái thoi thoăn thoắt chạy qua chạy lại nên “én đưa thoi” đã đi vào thơ ca: Ngày xuân con én đưa thoi; Tiết vừa con én đưa thoi (Kiều).
Khi én đi với nhạn (nhạn cũng chính là én), thường chỉ sự xa cách, trông mong ngày trở lại. Ví dụ: Nhạn về biển Bắc nhạn ôi/ Bao giờ nhạn về để én đợi trông - Ca dao.
Tóm lại, người Việt nói tiếng mẹ đẻ không gọi “én sào” mà là “yến sào”; không nói “nô nức én anh” mà là “nô nức yến anh”; cũng như nói “Mùa xuân chim én bay” chứ không nói “Mùa xuân chim yến bay”; nói “Một cánh én nhỏ chẳng làm nên mùa xuân”, chứ không nói “một cánh yến nhỏ...”; nói “Én bay thấp mưa ngập bờ ao/ Én bay cao mưa rào lại tạnh”, chứ không tùy tiện thay “én” bằng “yến” như ngữ liệu Vua Tiếng Việt đưa ra.
Hoàng Trinh Sơn (CTV)