Yêu cầu năng lực chuyên môn đối với giáo viên trung học phổ thông chính ra sao?

Yêu cầu năng lực chuyên môn đối với giáo viên trung học phổ thông chính ra sao?
10 giờ trướcBài gốc
Theo đó, quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông bao gồm: chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học; chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở; chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông.
Quy định này áp dụng đối với giáo viên, giáo viên giữ chức vụ hiệu trưởng, phó hiệu trưởng trường tiểu học, trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông, trường phổ thông có nhiều cấp học, trường chuyên, trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú và các tổ chức, cá nhân có liên quan.
Người viết là giáo viên nhận thấy, yêu cầu tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đối với giáo viên trung học phổ thông chính theo dự thảo Thông tư Quy định chuẩn nghề nghiệp cao hơn so với Thông tư 08/2023/TT-BGDĐT sửa đổi Thông tư 04/2021/TT-BGDĐT (quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các trường trung học phổ thông công lập).
Dự kiến bỏ chia hạng I, II, III với chức danh giáo viên?
Theo dự thảo Thông tư, bên cạnh tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng; chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông chính yêu cầu người thầy phải đảm bảo về trình độ đào tạo, bồi dưỡng và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.
Thứ nhất, giáo viên cần có khả năng điều chỉnh kế hoạch dạy học và giáo dục phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, địa phương và học sinh.
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay, việc linh hoạt xây dựng kế hoạch, lựa chọn nội dung và phương pháp giảng dạy là yếu tố cốt lõi để nâng cao chất lượng dạy học.
Giáo viên phải biết vận dụng phương pháp dạy học tích cực, phát huy năng lực của học sinh, giúp các em không chỉ nắm kiến thức mà còn hình thành kỹ năng tự học, tư duy sáng tạo.
Ví dụ, khi dạy bài “Quan thanh tra” (Gô-gôn) trong chương trình Ngữ văn 12, giáo viên có thể vận dụng linh hoạt phương pháp “đóng vai – nhập vai nhân vật” thay cho lối đọc – phân tích truyền thống.
Thứ hai, giáo viên cần có năng lực kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và sự tiến bộ của học sinh theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực.
Đánh giá không chỉ dừng lại ở việc chấm điểm mà phải phản ánh quá trình học tập, rèn luyện của học sinh. Giáo viên nên sử dụng linh hoạt nhiều hình thức như bài kiểm tra, dự án, sản phẩm học tập, thuyết trình hoặc nhật ký học tập.
Việc phản hồi tích cực, kịp thời giúp học sinh nhận ra điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, từ đó tự điều chỉnh để tiến bộ hơn.
Ví dụ, khi kiểm tra về thể loại thần thoại (Ngữ văn 10), giáo viên có thể cho học sinh làm dự án (thay vì yêu cầu viết) với chủ đề “Thần thoại và giá trị nhân văn trong đời sống hiện đại”. Mỗi nhóm chọn một truyện thần thoại để tìm hiểu và tạo sản phẩm như video kể chuyện, tranh minh họa,…
Thứ ba, giáo viên cần có năng lực tư vấn tâm lý và hướng nghiệp cho học sinh. Ở lứa tuổi trung học phổ thông, học sinh có nhiều biến đổi về tâm lý, nhận thức và nhu cầu định hướng nghề nghiệp.
Vì vậy, giáo viên phải là người bạn, người đồng hành giúp các em hiểu rõ bản thân, vượt qua khó khăn, lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và điều kiện gia đình.
Việc lồng ghép tư vấn tâm lý và hướng nghiệp trong các tiết học giúp học sinh thấy được ý nghĩa thực tế của việc học, từ đó hình thành động cơ học tập tích cực và định hướng đúng đắn cho tương lai.
Ví dụ, khi dạy thể loại phóng sự trong chương trình Ngữ văn 12, giáo viên có thể lồng ghép hướng nghiệp (nghề báo) bằng cách giao cho học sinh viết một bài phóng sự ngắn về nghề nghiệp ở địa phương (như nghề làm gốm, trồng hoa, làm du lịch,…).
Thứ tư, giáo viên cần tổ chức và quản lý lớp học hiệu quả, xây dựng được môi trường giáo dục thân thiện, dân chủ và an toàn.
Người thầy không chỉ giữ vai trò giảng dạy mà còn là người quản lý, định hướng tập thể lớp. Quản lý lớp học hiệu quả là biết khơi dậy tinh thần tự giác, ý thức kỷ luật và lòng nhân ái trong học sinh.
Một lớp học thân thiện, kỷ luật tích cực sẽ là nền tảng để mỗi học sinh cảm thấy được tôn trọng, được khuyến khích phát huy năng lực, đồng thời rèn luyện phẩm chất đạo đức.
Ví dụ, khi học sinh vi phạm nội quy lớp học, giáo viên áp dụng kỷ luật tích cực bằng cách yêu cầu học sinh đọc một cuốn sách ngắn về kỹ năng sống, sau đó yêu cầu các em viết bản thu hoạch, rút rút ra bài học.
Thứ năm, giáo viên cần biết phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục học sinh, giúp học sinh phát triển toàn diện.
Khi giáo viên chủ động liên hệ, trao đổi thường xuyên với phụ huynh, đồng thời kết nối với cộng đồng và các tổ chức xã hội, học sinh sẽ có thêm nhiều cơ hội rèn luyện kỹ năng, hình thành nhân cách và lối sống tích cực.
Ví dụ, trong lớp có học sinh có hoàn cảnh khó khăn, giáo viên chủ động phối hợp với ban giám hiệu, Đoàn trường và phụ huynh để kêu gọi quyên góp, hỗ trợ học bổng hoặc sách vở cho em.
Hoạt động này không chỉ giúp học sinh vượt qua khó khăn để tiếp tục học tập mà còn giáo dục tinh thần nhân ái, sẻ chia và trách nhiệm cộng đồng cho toàn lớp.
Thứ sáu, giáo viên trung học phổ thông chính cần có năng lực thiết kế và tổ chức các hoạt động chuyên môn, chuyên đề bồi dưỡng để chia sẻ và lan tỏa kinh nghiệm nghề nghiệp.
Thầy cô giáo không chỉ là người dạy giỏi mà còn là người dẫn dắt, hỗ trợ đồng nghiệp trong sinh hoạt chuyên môn.
Việc chủ động nghiên cứu, tổ chức các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá hay hoạt động giáo dục góp phần thay đổi hoạt động chuyên môn theo hướng tích cực hơn.
Ví dụ, giáo viên tổ chức chuyên đề “Kinh nghiệm ôn thi tốt nghiệp môn Ngữ văn hiệu quả”, chia sẻ cùng đồng nghiệp về phương pháp hệ thống hóa kiến thức, rèn kỹ năng làm bài nghị luận xã hội và nghị luận văn học, hướng dẫn học sinh ôn tập theo chủ đề, luyện đề có chọn lọc.
Thứ bảy, trong thời đại chuyển đổi số, giáo viên cần có năng lực ứng dụng công nghệ giáo dục và năng lực số trong giảng dạy.
Việc sử dụng hiệu quả các phần mềm hỗ trợ dạy học, thiết kế bài giảng điện tử, tổ chức lớp học trực tuyến… không chỉ giúp nâng cao hiệu quả bài học mà còn tạo hứng thú cho học sinh.
Bên cạnh đó, giáo viên phải biết hướng dẫn học sinh sử dụng công nghệ một cách an toàn, khoa học. Đồng thời, giáo viên cũng cần tham gia nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng, sáng tạo đồ dùng dạy học nhằm phục vụ cho hoạt động giảng dạy.
Ví dụ, giáo viên Ngữ văn hướng dẫn học sinh sử dụng công cụ AI để tìm ý tưởng, lập dàn ý hoặc tra cứu tư liệu văn học, đồng thời giải thích cách sử dụng an toàn, có chọn lọc và trung thực, tránh sao chép máy móc.
Thứ tám, giáo viên cần có kiến thức và kỹ năng tham gia nghiên cứu khoa học phù hợp với môn học, đồng thời có khả năng hướng dẫn học sinh thực hiện các đề tài khoa học kỹ thuật từ cấp trường trở lên.
Qua hoạt động này, học sinh được rèn luyện tư duy khoa học, tinh thần sáng tạo và năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn. Việc tham gia nghiên cứu cũng giúp giáo viên mở rộng hiểu biết, cập nhật kiến thức mới và nâng cao trình độ chuyên môn.
Ví dụ, giáo viên Ngữ văn hướng dẫn học sinh thực hiện đề tài “Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong hỗ trợ viết bài nghị luận xã hội” dự thi khoa học kỹ thuật cấp trường, cấp tỉnh, bằng cách hướng dẫn các em xây dựng đề cương, thu thập và phân tích dữ liệu.
Thứ chín, người giáo viên cần có năng lực sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc tùy theo yêu cầu công việc.
Ngoại ngữ giúp giáo viên tiếp cận kho tàng tri thức quốc tế, tham khảo các tài liệu chuyên môn, đổi mới phương pháp giảng dạy và hội nhập với xu thế toàn cầu.
Đối với vùng dân tộc thiểu số, việc biết sử dụng tiếng dân tộc giúp giáo viên gần gũi, tạo niềm tin và hiệu quả trong giáo dục.
Ví dụ, giáo viên Ngữ văn biết tiếng Anh có thể giới thiệu các tác phẩm văn học nước ngoài, như “Romeo and Juliet” (William Shakespeare) hay “The Old Man and the Sea” (Ông già và biển cả) của nhà văn Ernest Hemingway, giúp học sinh hiểu thêm giá trị phổ quát của văn học đối với nhân loại.
Thứ mười, giáo viên trung học phổ thông chính phải được ghi nhận bằng thành tích nghề nghiệp, như danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”, “Giáo viên dạy giỏi” hay “Giáo viên chủ nhiệm giỏi” cấp trường trở lên.
Những danh hiệu này không chỉ là phần thưởng, mà còn là sự ghi nhận cho tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nghề, sự tận tụy và uy tín của người thầy trong tập thể sư phạm.
Hơn nữa, các danh hiệu thi đua cũng là căn cứ quan trọng để giáo viên được xét thăng tiến nghề nghiệp theo quy định.
Thực tế, có nhiều giáo viên tuy giỏi chuyên môn, vững nghiệp vụ nhưng chưa từng được công nhận bằng danh hiệu thi đua nào, thầy cô sẽ gặp bất lợi khi xét xét thăng tiến nghề nghiệp.
Tài liệu tham khảo:
https://moet.gov.vn/van-ban/vbdt/Pages/chi-tiet-van-ban.aspx?ItemID=1736#divShowDialogDownload
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Cao Nguyên
Nguồn Giáo Dục VN : https://giaoduc.net.vn/yeu-cau-nang-luc-chuyen-mon-doi-voi-giao-vien-trung-hoc-pho-thong-chinh-ra-sao-post255037.gd