Kiến nghị cà phê nhân xanh không phải đối tượng chịu thuế VAT 5%
Sáng 9/10, tại Hà Nội, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã phối hợp với 8 hiệp hội, ngành hàng trong lĩnh vực nông nghiệp tổ chức Hội thảo: Tháo gỡ vướng mắc về chính sách thuế giá trị gia tăng với ngành nông, lâm, thủy sản”.
Mục tiêu của hội thảo nhằm nhận diện rõ các khó khăn trong thực tiễn thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng, đồng thời đề xuất các pháp điều chỉnh chính sách phù hợp, khả thi, kịp thời, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững.
VCCI phối hợp với 8 hiệp hội, ngành hàng tổ chức hội thảo. Ảnh: NH
Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7 và đang được triển khai trên thực tế. Tuy nhiên, quá trình thực hiện đã cho thấy có nhiều vướng mắc, bất cập, đặc biệt là trong cách áp dụng quy định thuế đối với các sản phẩm nông sản, lâm sản và thủy sản. Trong khi đây là lĩnh vực đóng vai trò chiến lược trong xuất khẩu và an sinh xã hội của Việt Nam.
Phát biểu tại hội thảo, ông Thái Như Hiệp - Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam (VICOFA), Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Vĩnh Hiệp cho biết: Trước năm 2013 khi thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng 2008 (13/2008/QH12), cà phê nhân là mặt hàng phải kê khai chịu thuế giá trị gia tăng (VAT) 5%, nhưng có nhiều bất cập phát sinh với cơ chế tính thuế đặc thù theo phương pháp khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Trong bối cảnh đó: Năm 2013 Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam đã kiến nghị Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) và Chính phủ bỏ thuế giá trị gia tăng cho cà phê nhân xanh.
Theo đó, Chính phủ đồng ý thông qua nghị định 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 và nêu giải thích rõ: Đối với các sản phẩm quy định tại khoản 1 điều 5 Luật Thuế giá trị gia tăng (2008) qua sơ chế thông thường là sản phẩm mới được làm sạch, phơi, sấy, bóc vỏ tách hạt…. và các hình thức bảo quản thông thường khác. Như vậy cà phê nhân xanh (nhân sống) là sản phẩm chỉ qua sơ chế thông thường sau thu hoạch nên thuộc đối tượng không kê khai thuế giá trị gia tăng.
Theo đó, việc áp dụng thuế VAT 5% theo Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 đối với cà phê nhân thì sẽ có những bất cập và khó khăn cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Những khó khăn này được ông Thái Như Hiệp chia sẻ: Việc thu thuế sau đó lại thực hiện hoàn thuế (hầu như cà phê nhân xuất khẩu đóng thuế VAT đều được hoàn thuế) sẽ phát sinh nhiều nhân sự của cơ quan thuế phục vụ cho việc hoàn thuế. Đồng thời cũng phát sinh nhiều chi phí thủ tục hoàn thuế cho doanh nghiệp do thời gian và thủ tục hoàn thuế dài và phức tạp.
Trước những bất cập trên, Hiệp hội Cà phê - Ca Cao Việt Nam kiến nghị, Bộ Tài Chính kiến nghị cơ quan có thẩm quyền đưa sản phẩm cà phê nhân xanh thuộc đối tượng không chịu thuế, không phải kê khai nộp thuế trong các khâu thương mại.
Nhiều ngành hàng kêu vướng khi áp dụng Luật Thuế giá trị gia tăng. Ảnh: NH
Lo ngại tác động đến mục tiêu của ngành
Cũng nói về những vướng mắc sau khi Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 có hiệu lực, ông Nguyễn Tấn Hiên - Phó Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam cho biết: Với Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024, mặt hàng hồ tiêu và gia vị cũng chịu thuế suất 5%.
Theo ông Nguyễn Tấn Hiên, việc áp thuế giá trị gia tăng 5% cho nông sản nói chung trong đó có hồ tiêu, gia vị bản địa các loại, cà phê, gạo, cao su, điều, dừa… là chưa phù hợp, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc hoàn thành các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Phân tích về những bất cập khi áp dụng thuế 5% đối với nhóm sản phẩm hồ tiêu và gia vị, ông Nguyễn Tấn Hiên cho rằng: Việt Nam với năng lực sản xuất hàng năm trên dưới 200 ngàn tấn hồ tiêu trong khi tiêu thụ nội địa chưa đến 4% (ước tính 6-8 ngàn tấn/năm).
Hơn nữa, mặc dù việc áp thuế 5% giá trị gia tăng theo nguyên tắc sẽ được khấu trừ nhưng trước mắt sẽ ngay lập tức làm tăng chi phí giá thành xuất khẩu trong khi lượng vốn lớn của doanh nghiệp, nhà xuất khẩu phải được huy động để nộp thuế cho nhà nước và đợi để được khấu trừ. Trong khi hiện cũng không có quy định hướng dẫn thủ tục, thời hạn hoàn thuế.
“Từ trước đến nay, vấn đề hoàn thuế gặp muôn vàn khó khăn do thủ tục và quy trình phức tạp, mất thời gian, kéo dài hàng năm mà doanh nghiệp vẫn chưa được lấy lại số tiền thuế để quay vòng vốn kinh doanh, chuẩn bị đơn hàng xuất khẩu” - ông Nguyễn Tấn Hiên nêu.
Ngoài Hiệp hội Cà Phê - Ca Cao; Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam thì các Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam; Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam; Hiệp hội Lương thực Việt Nam… cũng nêu ra những bất cập khi thực thi Luật Thuế giá trị gia tăng.
Chia sẻ khó khăn của các hiệp hội, ngành hàng trong lĩnh vực nông nghiệp, TS. Nguyễn Minh Thảo, Viện Nghiên cứu chính sách và chiến lược (Bộ Tài chính) cho rằng: Thuế là vấn đề muôn thủa của doanh nghiệp. Và những vướng mắc về thuế cũng gây ra những thiệt hại rất lớn đối với doanh nghiệp về cơ hội kinh doanh, cơ hội đầu tư và tìm kiếm thị trường mới.
Tuy nhiên, để tháo gỡ được những vướng mắc, bà Nguyễn Minh Thảo cho rằng, các ngành hàng cần có những thông tin chi tiết về những thiệt hại và lợi ích khi áp dụng Luật Thuế giá trị gia tăng, từ đó thông qua VCCI kiến nghị Chính phủ và các cơ quan chức năng nhằm tháo gỡ vướng mắc.
Kết luận tại hội thảo, ông Trần Quốc Khánh - Thường trực Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, Nguyên Thứ trưởng Bộ Công Thương cũng chia sẻ với những khó khăn mà các doanh nghiệp, ngành hàng đang phải đối mặt trong quá trình thực thi Luật Thuế giá trị gia tăng mới.
Theo đó, bên cạnh thừa nhận những điểm tích cực được đưa ra tại Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15, ông Trần Quốc Khánh cũng chỉ ra những điểm bất hợp lý trong quá trình triển khai. Từ đó, đưa ra hướng giải quyết hợp lý cho các doanh nghiệp, ngành hàng trong thời gian tới, nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển và đạt được mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu, kinh tế năm 2025.
Bà Nguyễn Thị Cúc - Chủ tịch Hiệp hội Tư vấn Thuế Việt Nam: Một chính sách thuế hợp lý sẽ thúc đẩy sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và tính tuân thủ của người dân và ngược lại. Nên chính sách thuế cần hướng tới sự công bằng, minh bạch, nâng cao tính tuân thủ và trách nhiệm của người nộp thuế.
Nguyễn Hòa