Từ niềm tự hào ở Thụy Sĩ…
Bà Anjuska Marija Weil - Chủ tịch Hội Hữu nghị Thụy Sĩ – Việt Nam
"Trời ơi, chúng ta nợ họ quá nhiều!
Trái tim tôi, đầy chất thơ, đã nguội lạnh theo thời gian.
Tôi nghĩ về họ, những người đồng chí đã ngã xuống, với bao cảm xúc dâng trào".
Đó là những lời thơ trong bài "Vì những người đồng chí đã ngã xuống" của bà Anjuska Marija Weil – người luôn đấu tranh vì hòa bình và công lý cho Việt Nam, hiện là Chủ tịch Hội Hữu nghị Thụy Sĩ – Việt Nam.
Bà Anjuska Marija Weil chia sẻ niềm hân hoan khi được chứng kiến một Việt Nam đang phát triển từng ngày – đất nước mà bà cùng bạn bè Thụy Sĩ đã dành cả tuổi trẻ để đấu tranh và kêu gọi hòa bình, độc lập.
Chia sẻ với phóng viên TTXVN tại Thụy Sĩ, bà bày tỏ ấn tượng trước quan hệ hai nước được thắt chặt bằng nhiều hoạt động tiêu biểu, như cuộc gặp giữa Tổng Bí thư Tô Lâm và Tổng thống Thụy Sĩ Viola Amherd năm 2024; các chuyến công tác của Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dẫn đầu tại Davos, và mới đây là chuyến công tác tại Thụy Sĩ của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn.
Từ khi thành lập, Hội Hữu nghị Thụy Sĩ – Việt Nam đã tích cực thông tin tới công chúng về đất nước, con người Việt Nam, triển khai các dự án nhân đạo, hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam, bảo trợ trường Bình Minh dạy tiếng Việt ở Zurich...
Bà Weil khẳng định: "Kể từ khi Việt Nam giành được độc lập, tôi luôn dõi theo con đường phát triển của các bạn. Trải qua hai cuộc kháng chiến và những năm bị cấm vận, các bạn đã kiên trì và có được thành quả như ngày hôm nay. Từ góc độ này, tôi và những đồng chí năm xưa có quyền cảm thấy tự hào".
… đến ký ức của một vị tướng Ấn Độ
Tướng P.K. Chakravorty – cựu Tùy viên quân sự Ấn Độ tại Việt Nam giai đoạn 1996–1999
Tại New Delhi, nhân dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, Tướng P.K. Chakravorty – cựu Tùy viên quân sự Ấn Độ tại Việt Nam giai đoạn 1996-1999 chia sẻ những ấn tượng về không khí của ngày 2/9 tại Hà Nội và Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bước đi đầu tiên hướng tới xây dựng một nước Việt Nam thống nhất.
Theo ông, bản Tuyên ngôn độc lập Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 đã truyền cảm hứng mạnh mẽ cho toàn dân.
Ông so sánh phong trào đấu tranh giành độc lập của Việt Nam và Ấn Độ: Nếu Ấn Độ chủ yếu chống thực dân Anh, thì Việt Nam lần lượt đối đầu với nhiều thế lực. Dù khác biệt, cả hai dân tộc đều thể hiện ý chí quật cường và bền bỉ.
Việt Nam có lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng một tập thể lãnh đạo xuất sắc như Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người chỉ huy nhiều chiến thắng lịch sử. Ấn Độ có Mahatma Gandhi và nhiều nhà lãnh đạo quyết liệt như Bhagat Singh, Rajguru, Chandrashekhar Azad và Subhas Chandra Bose - người thành lập Quân đội Quốc gia Ấn Độ. Trong khi Ấn Độ có các trận chiến ở Imphal và Kohima, thì Việt Nam trải qua nhiều trận đánh lớn như Điện Biên Phủ, Khe Sanh, Pleiku và Chiến dịch Hồ Chí Minh. Những trải nghiệm và chiến thắng đó đã góp phần tạo nên mối quan hệ hữu nghị bền chặt giữa hai dân tộc.
Không chỉ nhìn lại lịch sử, Tướng Chakravorty còn bày tỏ ấn tượng với một Việt Nam hiện đại, có dân số trên 100 triệu người, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hơn 476 tỷ USD và kim ngạch thương mại hai chiều với Ấn Độ gần 15 tỷ USD. Đây là minh chứng cho sự vươn lên mạnh mẽ sau nhiều thập kỷ chiến tranh.
Hành trình gắn bó cả đời của một học giả Nhật Bản
GS. Furuta Motoo
Với GS. Furuta Motoo, Cách mạng Tháng Tám chính là nguồn cảm hứng đầu tiên đưa ông đến với Việt Nam. Từ một luận văn tốt nghiệp đại học về sự kiện lịch sử này, năm 1974, ông đặt chân tới miền Bắc Việt Nam để tìm hiểu "sức mạnh bí ẩn" giúp một dân tộc nhỏ bé có thể đánh bại những đế quốc lớn.
Giáo sư Furuta không thể tưởng tượng rằng chính sự lựa chọn này sẽ dẫn đến một hành trình nghiên cứu sâu rộng về Việt Nam và gắn bó lâu dài với đất nước này.
Một trong những công trình lớn của ông là cuốn "Nạn đói năm 1945 – Những chứng tích lịch sử" (1995), hợp tác cùng Giáo sư Văn Tạo, góp phần làm rõ nguyên nhân, hậu quả của nạn đói đã cướp đi mạng sống của khoảng 2 triệu người dân ở miền Bắc Việt Nam.
Điều đặc biệt là công trình này gắn với di nguyện của cha ông. Trước khi qua đời, cha GS. Furuta để lại khoản tiền và mong con trai sử dụng cho nghiên cứu về nạn đói 1945. Thực hiện tâm nguyện ấy, ông Furuta đã dành 100 triệu đồng hỗ trợ nhóm nghiên cứu Việt Nam tiến hành khảo sát, thu thập tư liệu thực địa. Đây là minh chứng cho sự gắn bó không chỉ của cá nhân ông mà còn của cả gia đình dành cho Việt Nam.
Hiện nay, với cương vị Hiệu trưởng Đại học Việt Nhật, GS. Furuta tiếp tục đào tạo nhân lực chất lượng cao và tăng cường hợp tác giáo dục – nghiên cứu giữa hai nước. Từ chuyến đi đầu tiên năm 1974, giờ đây Việt Nam đã trở thành một phần bản thể của ông.
Qua nhiều góc nhìn, bạn bè quốc tế đều chung một nhận định: Việt Nam là biểu tượng của ý chí và khát vọng, là nguồn cảm hứng vượt khỏi biên giới quốc gia.
80 năm sau Ngày Độc lập, Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế, trở thành biểu tượng của khát vọng vươn lên, của sự kiên cường và khát vọng phát triển. Như lời bà Anjuska Weil: "Từ góc độ này, tôi và những người đồng chí năm xưa có quyền cảm thấy tự hào. Hy vọng rằng Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển hơn nữa trong tương lai".
(Còn tiếp)