Âm mưu của 'Điệp viên K'

Âm mưu của 'Điệp viên K'
2 giờ trướcBài gốc
Túng thiếu sinh… gián điệp
Farnsworth (sinh ở Chicago (tiểu bang Illinois) trong một gia đình có cha là ông Frederick Wilkinson Farnsworth còn mẹ là bà Anna M. Semer, được bổ nhiệm vào Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Annapolis (tiểu bang Maryland) năm 1911 theo sự giới thiệu của dân biểu Maryland khi đó là ông Nicholas Longworth. Farnsworth khét tiếng vì sự sa đọa trong những buổi tiệc tùng nhậu nhẹt.
Sách niên giám của Học viện Hải quân mô tả Farnsworth với những từ như “táo bạo và liều lĩnh” và bồi thêm rằng nếu Farnsworth sống trong thời đại hải quân cũ thì “tên tuổi sẽ nổi như cồn vì những hành động liều lĩnh cùng việc nhiều lần thoát chết trong gang tấc”. Mặc dầu vậy Farnsworth cũng được thừa nhận bởi năng lực xuất sắc của mình với tư cách là sĩ quan hải quân tương lai.
John Semer Farnsworth, sĩ quan hải quân Mỹ làm gián điệp cho Nhật Bản.
Khi tốt nghiệp 4 năm sau đó, Farnsworth được điều động tới Hạm đội Châu Á (của Hoa Kỳ, là một hạm đội của Hải quân Hoa Kỳ trong phần lớn nửa đầu thế kỷ 20. Trước Thế chiến II, hạm đội này đã tuần tra quần đảo Philippines. Phần lớn hạm đội đã bị Nhật Bản phá hủy vào tháng 2/1942, sau đó bị giải thể, và phần còn lại được sáp nhập vào bộ phận hải quân của Bộ Tư lệnh Khu vực Tây Nam Thái Bình Dương, sau này trở thành Hạm đội 7) chủ yếu làm việc trên các khu trục hạm.
Năm 1917, Farnsworth quay về Mỹ với cấp bậc tạm thời là Trung úy). Năm 1920, anh ta tham gia khóa học lái máy bay tại Căn cứ không hải quân Pensacola hay NAS Pensacol, là một căn cứ của Hải quân Hoa Kỳ nằm cạnh Warrington, Florida, một cộng đồng ở phía tây nam thành phố Pensacola. Nơi đây được biết đến nhiều nhất là căn cứ huấn luyện chính ban đầu cho tất cả các sĩ quan Hải quân, Thủy quân Lục chiến và Tuần duyên Hoa Kỳ theo đuổi sự nghiệp phi công hải quân và sĩ quan bay hải quân.
NAS Pensacola là căn cứ huấn luyện nâng cao cho hầu hết các sĩ quan bay hải quân, và là căn cứ của Phi đội Trình diễn Bay Hải quân Hoa Kỳ, đội bay chính xác được gọi là Blue Angels. Căn cứ không quân này cũng là nơi đặt Bộ Tư lệnh Giáo dục và Đào tạo Hải quân (NETC) và Viện Y tế Hàng không Vũ trụ Hải quân (NAMI).
NAS Pensacola có Sân bay Forrest Sherman, là nơi đóng quân của Phi đoàn huấn luyện Không quân SIX (TRAWING 6), cung cấp đào tạo bay bậc đại học cho tất cả các sĩ quan bay hải quân tương lai của Hải quân Hoa Kỳ và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, và sĩ quan bay/ hoa tiêu cho các đối tác NATO/ đồng minh/ liên minh khác. Trở lại chuyện của Farnsworth, anh ta được cấp chứng chỉ huấn luyện trên thủy phi cơ / khí cầu khi hoàn tất khóa huấn luyện vào năm 1922. Rồi anh ta quay lại Học viện công nghệ Massachusetts và có thời gian học sau đại học ở New York. Cuối cùng anh ta được phong quân hàm Trung tá.
Sau khi cưới vợ thuộc tầng lớp thượng lưu, Farnsworth ngập trong nợ nần, vay mượn tiền của một quân nhân nhưng không chịu trả. Vì điều này khiến Farnsworth (từng được coi là một trong những sĩ quan hải quân trẻ xuất sắc nhất của hải quân) ra tòa án binh vào năm 1927. Ngày 12/11/1927, Farnsworth bị phê rằng “có hành vi làm suy yếu tinh thần của lực lượng” và “hành vi đáng xấu hổ phá hoại đạo đức tốt” và bị tuyên có tội rồi bị sa thải một cách nhục nhã khỏi quân đội.
Bất mãn và cần tiền, Farnsworth làm gián điệp cho Nhật Bản - quốc gia đang tìm cách chiêu mộ nhiều người Mỹ làm gián điệp trong 2 thập niên 1920 và 1930. Farnsworth thường chuyển thông tin mật cho những người phụ trách của mình, gồm chỉ huy Yoshiyuki Ichimiya - tay tùy viên trợ lý hải quân được phái đến đại sứ quán Nhật Bản giai đoạn tháng 10/1932 đến tháng 12/1934; và viên Trung tá Arika Yamaki - người kế nhiệm Ichimiya cho đến tháng 11/1935. Sau này Farnsworth tuyên bố rằng mình được trả công 100 USD/ tuần cho hoạt động gián điệp của gã.
Nhà báo, phát thanh viên Fulton Lewis Jr của tờ Hearst, người đã vạch trần âm mưu của Farnsworth.
Hoạt động kín kẽ
Dù đã rời khỏi hải quân, Farnsworth vẫn có được hầu hết thông tin bằng cách liên lạc với những cộng sự cũ để xin tài liệu và họ hoàn toàn không hề biết mục đích của người đồng nghiệp cũ là gì, họ chỉ biết rằng Farnsworth cần thông tin cho “những bài báo tạp chí”.
Farnsworth cũng nhặt nhạnh từng mẫu thông tin hải quân nho nhỏ từ phía vợ các sĩ quan cấp cao rồi khéo léo ghép chúng lại với nhau. Có lần Farnsworth đã lên một tàu khu trục ở Annapolis, đánh lừa một viên thiếu úy cung cấp dữ liệu điều động rồi vội quay lại đại sứ quán Nhật Bản để chụp ảnh lại rồi quay lại trả vào ngày hôm sau. Farnsworth lấy những thông tin như vậy là khá dễ dàng vì an ninh hải quân Mỹ thời kỳ đó còn tương đối lỏng lẻo.
Vậy nhưng khi Farnsworth đánh cắp một cuốn sổ tay hải quân đề là Cục thông tin và an ninh có chứa đựng các kế hoạch về những chiến thuật và thông tin chiến đấu được thu thập từ những cuộc diễn tập thực địa và được thẩm tra bởi các sĩ quan hải quân cấp cao thì hồi chuông cảnh báo đã được gióng lên, buộc Văn phòng tình báo Hải quân Mỹ (ONI) kêu gọi mở cuộc điều tra về sự biến mất của nó. Sau này người ta mới biết rằng Farnsworth đã sao chép cuốn sổ tay hướng dẫn và bán bản sao của nó cho người Nhật vào ngày 15/5/1935.
Trong quá trình điều tra, các sĩ quan ONI được biết việc Farnsworth đã vung tiền cho những sĩ quan hải quân quen biết - họ biết gã - dù biết rằng anh ta đang túng bấn. Cuộc điều tra sâu hơn hé lộ việc Farnsworth đã mượn các sách mật mã và tín hiệu, những câu hỏi thăm dò về chiến thuật, thiết kế các tàu mới và vũ khí. Cuối cùng, vợ của một sĩ quan cấp cao sống ở Annapolis đã nói với ONI rằng Farnsworth đã thúc ép bà cho phép Farnsworth đọc những tài liệu chính thức.
Farnsworth cũng được ONI và FBI đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt. Khi tư lệnh Yamaki được thay thế bởi tư lệnh Bunjiro Yamaguchi vào tháng 11/1935, người Nhật đã quyết định trả tiền cho Farnsworth theo từng phần thay vì trả góp. Đối mặt với tình trạng thu nhập giảm đột ngột và bằng cách nào đó nghe được các nhà điều tra đang tiến gần đến mình, Farnsworth đã tiếp cận ông Fulton Lewis Jr (phóng viên thường trú ở Washington của tờ Hearst đầu năm 1936.
Farnsworth đề xuất với nhà báo Lewis rằng gã muốn viết một loạt bài báo có tựa đề “Làm cách nào tôi là gián điệp trong hải quân Mỹ cho chính phủ Nhật” với cái giá 20.000 USD rõ ràng là để thuyết phục Lewis tin rằng mình là điệp viên kép. Gã cũng đặt điều kiện là phải được ưu tiên bắt chuyến bay đầu tiên nhằm kịp đón khinh khí cầu Hinderburg về Đức. Có vẻ nghi ngờ, nhà báo Lewis liền tức khắc thông báo cho Đại úy William D. Puleston (giám đốc ONI) về vị khách lạ.
Căn cứ Pensacola của Phi đội Trình diễn Bay Hải quân Hoa Kỳ, được gọi là Blue Angels.
Bị bắt giữ và xét xử
Lần tiếp đó Farnsworth và Lewis đã gặp nhau, Lewis yêu cầu gã cung cấp bằng chứng của việc có quan hệ với người Nhật. Trước sự chứng kiến của Lewis, Farnsworth đã gọi điện cho chỉ huy Yamaguchi và đòi tiền viên sĩ quan này. Một cuộc gặp được dàn xếp, còn Farnsworth cố gắng thuyết phục nhà báo Lewis rằng hãy đi cùng mình, giả làm tài xế taxi. Lewis khước từ nhưng Farnsworth quá nóng lòng chứng minh sự trung thực của mình nên đã chở nhà báo này tới văn phòng nơi gã đã sao chụp sổ tay mật, cũng như cung cấp thêm bằng chứng xác thực khác cho câu chuyện của mình.
Đối mặt với bằng chứng này, nhà báo Lewis liền cấp báo cho giám đốc ONI, ông Puleston, người đã lập kế hoạch để bắt giữ Farnsworth vào ngày 14/7/1936. Farnsworth bị buộc tội bán mật tin cho người Nhật. Gã bị giam với số tiền bảo lãnh 10.000 USD cho đến phiên điều trần sơ bộ. Vụ án được đưa ra trước bồi thẩm đoàn. Trong lời khai trước bồi thẩm đoàn đã hé lộ việc Farnsworth 2 lần gọi điện cho đại sứ quán Nhật Bản vào cái ngày trước khi gã bị bắt giữ.
Trung tá Leslie G. Genhres khai với bồi thẩm đoàn rằng Farnsworth đã nẫng tay trên tài liệu mật trên bàn làm việc của ông tại bộ hải quân vào ngày 1/8/1934. Một nhân viên của nhà máy phốt phát hải quân tên là Grace Jamieson khai trước tòa rằng Farnsworth thường xuyên đến nhà máy để sao chép tài liệu quân sự.
Dựa trên thông tin này, bồi thẩm đoàn đã truy tố Farnsworth tội bán tài liệu mật cho người Nhật cũng như âm mưu làm điều tương tự; trong bản cáo trạng, bồi thẩm đoàn cũng bao gồm tên các nghi phạm Ichimiya và Yamaki, những người này đã nhanh chân về lại Nhật Bản. Nếu bị kết tội, Farnsworth sẽ đối mặt với mức án tối đa 20 năm tù giam. Mặc dù Farnsworth đã tự bào chữa dựa trên một vụ tai nạn máy bay lúc bản thân đang tham gia khóa đào tạo tại căn cứ NAS Pensacola, việc này có thể “không chịu trách nhiệm”, song phía hải quân đã phản bác lập luận đó khi tuyên bố rằng không có hồ sơ nào cho thấy có một vụ tai nạn như vậy từng tồn tại.
Đến lượt mình, luật sư của Farnsworth yêu cầu ủy ban tòa án binh phải cho Ichimiya và Yamaki làm chứng bào chữa cho Farnsworth thông qua Tổng lãnh sự Hoa Kỳ ở Tokyo. Tuy nhiên phía Nhật đã từ chối yêu cầu này khi viện dẫn luật pháp Nhật Bản cấm các sĩ quan quân đội trả lời các câu hỏi ở nước ngoài.
Ngày 15/2/1937, Farnsworth thay đổi lời nhận tội thành Nolo Contendere (“tôi không muốn tranh luận”), bỏ qua phiên tòa xét xử có bồi thẩm đoàn và để cho quan tòa quyết định vụ án; nếu phiên tòa được tiếp tục, bên công tố sẽ sẵn sàng chứng minh vụ án của mình bằng cách tung ra một loạt nhân chứng và bằng chứng khác.
Khi quan tòa nghe lời biện hộ không tranh luận, ông cho biết sẽ xem xét các khía cạnh của vụ án trước khi tuyên án. Vậy nhưng chỉ vài ngày sau Farnsworth lại thay đổi lời nhận tội thành không có tội. Farnsworth lập luận rằng mình đã đưa ra lời nhận tội mà không có luật sư bào chữa trước, mà việc này dựa trên sự tai tiếng của vụ án do Farnsworth gây ra.
Quan tòa tuyên bố rằng Farnsworth có quyền thay đổi lời khai trước khi phiên tòa tuyên án và sẽ xem xét đề nghị của anh ta. Trên thực tế đây là nỗ lực đầu tiên của Farnsworth nhằm bác bỏ vụ án của mình. Nhóm luật sư bào chữa cho Farnsworth đã rút lui, còn Farnsworth thì thông báo với quan tòa rằng mình sẽ tự bào chữa. Động thái tiếp đó của Farnsworth là nộp đơn xin lệnh Habeas Corpus (“Bạn phải có thi thể”) nhằm được tại ngoại. Farnsworth lập luận rằng những sự kiện được nêu trong bản cáo trạng mà gã bị kết án không cấu thành tội phạm.
Chưa hết, Farnsworth còn nói rằng mình không hề biết Nolo Contendere (“Không tranh luận”) đồng nghĩa với việc nhận tội và muốn rút lại lời nhận tội, nhưng đã bị bác bỏ. Tòa án không đồng tình với sự thuyết phục của Farsnworth và do đó đã bác bỏ việc gã xin lệnh Habeas Corpus. Ngày 27/2/1937, John Semer Farnsworth bị kết án từ 4 đến 12 năm tù vì tội “âm mưu liên lạc và chuyển giao cho một chính phủ hải ngoại (ở đây là Nhật Bản) các tài liệu, sổ mật mã, hình ảnh và các kế hoạch liên quan đến quốc phòng với mục đích dùng chúng để gây tổn hại cho Hoa Kỳ”.
Các tình tiết về vụ án của Farnsworth đã xuất hiện trong cuốn sách xuất bản năm 1943 của tác giả Alan Hynd mang tựa đề “Sự phản bội từ phương Đông: Chuyện nội bộ về các điệp viên Nhật nằm vùng tại Mỹ” cũng như trong cuốn sách xuất bản năm 1946 của tác giả Đại úy Ellis M. Zacharias mang tựa đề “Những điệp vụ mật: Chuyện của một sĩ quan tình báo”.
Tháng 1/1938, Farnsworth đã kháng cáo quyết định của tòa án trong đơn xin lệnh Habeas Corpus bằng cách lập luận rằng tòa án đã sai lầm khi phán quyết rằng người nộp đơn không thể được trả tự do; hơn nữa ngay từ đầu tòa án đã không có thẩm quyền xét xử và không có thẩm quyền tuyên án vô thời hạn. Tuy nhiên bất chấp những nỗ lực này, tòa đã bác đơn kháng cáo của Farnsworth và bản án của gã vẫn được Tòa phúc thẩm liên bang Khu vực 5 giữ nguyên. Farnsworth thụ án 11 năm tù và qua đời ở Manhattan, thọ 59 tuổi.
Phan Bình (Tổng hợp)
Nguồn ANTG : https://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/am-muu-cua-diep-vien-k-i787642/