Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Đầu ngõ leng keng tiếng rao cơm rượu, bánh tro. Mẹ lom khom xé tờ lịch cũ, ghim vào cây đinh đóng cạnh ban thờ. Thoắt cái đã nửa năm. Vừa qua tết nguyên đán đã chộn rộn tới đoan ngọ. Thời gian cứ như cơn gió Lào hắt ngang ô cửa. Mẹ lẩm nhẩm lắc đầu, nào đã kịp làm cái gì đâu.
Đoan ngọ nhằm mùng 5/5 âm lịch, được người Việt gọi là tết diệt sâu bọ. Chắc bởi những ngày giữa năm ẩm ương trong cái tiết nắng mưa bất chợt. Cái loại khí hậu chỉ sơ sẩy tý liền khục khặc ho, chẳng những dễ nổi bệnh vặt trên người, mà còn hay sinh ra bệnh trên cây cối do sâu bọ quấy phá. Thành ra ở quê, đúng ngày 5/5 tầm 12 giờ trưa mọi người thường ra ngoài sân súc miệng ba lần cho sạch sâu bọ, ăn một bát cơm rượu cho sâu bọ say, và một cái bánh tro để diệt sâu bọ. Người ta tin rằng, những thứ này không chỉ xua đuổi sâu bọ trên cây, mà còn diệt trừ bệnh tật trong người.
Hồi tôi tóc còn để chỏm, mẹ thường tự ủ cơm rượu, gói bánh tro. Cái ngày mà thứ bánh trái gì trong nhà cũng tự tay làm lấy, khiến tết đoan ngọ trở thành một cột mốc đáng để chờ mong.
Nếp nấu cơm rượu là loại nếp lứt hảo hạng, được mẹ chọn kỹ càng. Đem nếp giã một lần vừa đủ rơi vỏ thóc, còn giữ lại lớp bọc vàng đục của cám, mẹ dùng nó để nấu xôi rượu. Xôi rượu được hấp hai lần. Một lần cho vừa chín tới, được mẹ nhắc xuống cái rế để nguội. Vừa bớt nóng, mẹ đổ thêm nước lạnh vào chõ xôi, đem lên bếp hấp lần hai. Khi đủ độ chín, mẹ đem xôi bới ra cái nia to, chờ nguội hẳn mới đơm vào rổ. Cứ lần lượt một lớp xôi rượu, một lớp men. Xong xuôi, mẹ rửa sạch một tàu lá chuối ngoài vườn, phủ kín mớ cơm rượu vừa ủ. Nước cơm rượu thơm thoảng vị nếp, tròng trành thêm cái hương cỏ cây đồng nội, hậu ngọt dễ uống chứ không hắc nồng như mấy thứ rượu khác. Thành ra, trẻ con, người già đều ưa thích. Vừa nhắm hớp rượu nếp, vừa nhai nhân nhẩn cái cơm rượu ăn kèm, đã đủ say lòng người, huống gì sâu bọ.
Bánh tro thì tốn công hơn. Mẹ lựa những hạt gạo mẩy nhất để làm bánh. Gạo mua về đem ngâm trong nước tro được đốt từ một số loại thảo mộc, sau đó pha thêm ít nước vôi trong. Khâu này cần kinh nghiệm lâu năm để đong đếm, bởi nếu cho nhiều quá thì bánh sẽ nồng, mà ít quá bánh lại nhạt.
Ngâm gạo với nước tro qua một đêm, dùng tay miết thử, thấy đầu hạt gạo mịn, màu gạo ngả vàng óng ánh là đã đạt yêu cầu. Mẹ tước lá chuối sau vườn, lau sạch bụi, rồi xếp từng thớ chồng lên nhau. Bỏ gạo đã ngâm vào lá, gói lại thành hình tam giác như cái bánh ú, buộc chặt bằng dây lạc mảnh. Đem bánh cột thành chùm 10 cái, đem đi hấp ngập nước trong hai tiếng, rồi vớt ra bỏ vào nước lạnh để bánh mau nguội và giữ được màu xanh của lá. Bánh tro có vị nhạt, nên thường ăn kèm cùng mật mía. Màu bánh vàng ươm như hổ phách, thoảng chút hương vôi, ngai ngái vị đồng nội của cây cỏ, ăn dính dính mềm mềm.
Đã gần bảy năm mẹ chẳng còn ủ cơm rượu hay gói bánh tro. Đôi chân bị ghìm bởi cặp nạng chống như phong ấn luôn những mùa tết ở nhà. Mẹ đội nón đi chợ. Tôi đỡ tay mẹ, nhìn bóng lưng mẹ cong khuỵu dưới cái nắng đầu hạ. Quầy hàng cơm rượu, bánh tro nườm nượp người tới mua đang hắt từng hơi men thơm nồng của nếp. Những chai cơm rượu được đong đầy, xếp thành hàng trên bàn nhựa đỏ. Vài hũ cơm rượu bán lẻ nhỏ hơn được đặt cạnh bên, tiện cho ai muốn ăn uống tại chỗ. Mớ bánh tro vừa hấp chín treo lủng lẳng thành chùm, trông núng nính như quả khế đầu cành vừa chín tới. Mẹ mua vừa đủ cho một mâm cúng nhỏ. Trong bóng nắng ngang vành nón lá, chúng tôi dìu nhau về trên con đường làng vừa rải nhựa còn lắm lấm lem.
Những thức ăn ngày bé luôn trông đợi đã trở thành một loại nghi thức. Thời gian dần bào đi cái háo hức thưở nhỏ, nhưng đâu đó trong một nẻo sơ tâm, mẹ và tôi vẫn chờ mong điều tốt đẹp ở nửa năm còn lại.
Nguyễn Trần Thanh Trúc