Ấn tượng Việt Nam: Hành trình từ khép kín đến điểm sáng về hội nhập

Ấn tượng Việt Nam: Hành trình từ khép kín đến điểm sáng về hội nhập
6 giờ trướcBài gốc
Trải qua 80 năm xây dựng và phát triển đất nước, hành trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là một chặng đường dài, đầy gian nan nhưng cũng giàu tự hào. Từ một nền kinh tế khép kín, nặng về tự cung tự cấp, Việt Nam đã từng bước mở cửa, khẳng định vị thế trong cộng đồng quốc tế và trở thành một trong những điểm sáng về hội nhập khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Quá trình này không chỉ phản ánh sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế mà còn gắn liền với đổi mới tư duy đối ngoại, đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước và sự kiên định, nỗ lực của Bộ Công Thương – cơ quan tiên phong trong đàm phán, ký kết và thực thi hiệp định thương mại tự do (FTA).
Thủ tướng Phạm Minh Chính và Phó Tổng thống, Thủ tướng UAE Sheikh Mohammed bin Rashid Al Maktoum chứng kiến ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện (CEPA) giữa Việt Nam và UAE. Ảnh: Dương Giang/TTXVN
Đánh giá từ các chuyên gia, nhìn lại 80 năm qua có thể thấy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam gắn bó chặt chẽ với những bước thăng trầm của dân tộc. Giai đoạn kháng chiến chống ngoại xâm, đất nước tập trung cho mục tiêu độc lập dân tộc, nền kinh tế tất yếu mang tính khép kín, ưu tiên tự lực, tự cường. Khi chiến tranh kết thúc, mô hình bao cấp đã duy trì nền kinh tế nhưng bộc lộ nhiều hạn chế, khiến đất nước tụt hậu so với khu vực. Sự kiện đổi mới năm 1986 mở ra bước ngoặt, đặt nền móng cho tư duy phát triển mới: mở cửa, hội nhập với thế giới, lấy hợp tác quốc tế làm động lực để phát triển trong hòa bình. Đây chính là thời điểm khởi đầu cho hành trình hội nhập đầy bản lĩnh của Việt Nam.
Từ cuối thập niên 1980, Việt Nam từng bước xây dựng mối quan hệ kinh tế đối ngoại, gia nhập Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995, ký Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2000, tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) năm 1998.
Đặc biệt, dấu mốc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007 đã khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của đất nước. Lần đầu tiên, Việt Nam trở thành thành viên của một định chế thương mại toàn cầu, được thừa nhận là nền kinh tế thị trường mới nổi, hội nhập toàn diện với luật chơi quốc tế. Đây là bước nhảy vọt đưa nền kinh tế thoát khỏi thế bị động, khép kín để hòa mình vào dòng chảy chung của thương mại toàn cầu.
Sau WTO, Việt Nam không dừng lại mà tiếp tục bứt phá mạnh mẽ bằng chiến lược đàm phán và ký kết hàng loạt FTA. Từ những FTA truyền thống trong ASEAN, Việt Nam đã tiến lên các FTA song phương và đa phương chất lượng cao như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP).
Những FTA này không chỉ mở rộng thị trường cho hàng hóa, dịch vụ mà còn đặt ra những tiêu chuẩn mới về thể chế, minh bạch hóa, bảo hộ sở hữu trí tuệ, phát triển bền vững. Đặc biệt, các FTA đã trở thành động lực thúc đẩy cải cách trong nước, buộc Việt Nam phải nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa môi trường kinh doanh và chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng mở, năng động và hội nhập sâu rộng hơn.
Theo các chuyên gia, nếu như WTO là dấu mốc “cánh cửa mở rộng”, CPTPP, EVFTA và RCEP là minh chứng cho bước trưởng thành mới, khẳng định Việt Nam không chỉ tham gia mà còn chủ động định hình các luật chơi. Với CPTPP, Việt Nam tham gia một trong những FTA tham vọng nhất thế giới; trong đó, nhiều cam kết đi xa hơn WTO.
Với EVFTA, Việt Nam trở thành một trong số ít quốc gia đang phát triển ký kết FTA toàn diện với EU – thị trường có mức độ đòi hỏi cao về chất lượng và tiêu chuẩn. Với RCEP, Việt Nam góp phần xây dựng khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới, gắn kết chặt chẽ chuỗi cung ứng Đông Á. Tất cả đã minh họa rõ nét cho hành trình từ bị động, khép kín đến hội nhập sâu rộng, chủ động và dần tham gia định hình trật tự thương mại quốc tế.
Thành quả hội nhập 80 năm qua đã đưa Việt Nam từ một nền kinh tế nghèo nàn, thiếu thốn trở thành nền kinh tế có độ mở hàng đầu thế giới. Nếu năm 1986, kim ngạch xuất nhập khẩu mới chỉ đạt vài tỷ USD, đến năm 2024, con số này đã tới gần 800 tỷ USD, đưa Việt Nam đứng trong nhóm 20 nền kinh tế thương mại lớn nhất toàn cầu. Không dừng lại ở đó, hàng hóa Việt Nam đã hiện diện tại hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ; trong đó, nhiều thị trường có yêu cầu cao như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản...
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên và Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Công nghiệp Israel Nir Barkat thống nhất nội dung và chính thức tuyên bố kết thúc đàm phán Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Israel (VIFTA). Ảnh: Bộ Công Thương
Tại Hội nghị Tham tán Thương mại khu vực châu Âu diễn ra vào tháng 7/2024 tại Italy, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên từng nhấn mạnh, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ giúp mở rộng thị trường, thu hút vốn, tiếp nhận công nghệ mà còn thay đổi căn bản tư duy kinh doanh.
“Hiện nay, doanh nghiệp Việt Nam đã chuyển từ bán cái mình có sang bán cái thị trường cần, gắn xuất khẩu với chuẩn mực quốc tế về môi trường, lao động, sở hữu trí tuệ. Đây là bước chuyển quan trọng từ mở cửa sang hội nhập chủ động, toàn diện và sâu rộng, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững”, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho hay.
Từ một quốc gia phải nhập khẩu phần lớn hàng hóa thiết yếu, Việt Nam đã trở thành công xưởng sản xuất, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu trong nhiều ngành hàng như dệt may, da giày, điện tử, nông sản, thủy sản. Đó là kết quả của quá trình kiên trì mở cửa, hội nhập, tận dụng hiệu quả cơ hội từ các hiệp định thương mại.
Tuy nhiên, hội nhập không chỉ là thành tựu về số liệu tăng trưởng. Quan trọng hơn là tạo động lực cho sự thay đổi về chất lượng phát triển. Tham gia WTO và các FTA thế hệ mới đã giúp Việt Nam từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, xây dựng hệ thống pháp luật minh bạch, tạo môi trường thuận lợi hơn cho doanh nghiệp.
Những cam kết hội nhập cũng thúc đẩy cải cách hành chính, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của Chính phủ. Đồng thời, hội nhập còn mở ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ nhân lực, thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Tuy nhiên, khi mở cửa thị trường, doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt ngay trên sân nhà. Nhiều ngành sản xuất truyền thống gặp khó khăn trước làn sóng hàng hóa ngoại nhập. Việc thực thi cam kết tiêu chuẩn cao của các FTA thế hệ mới đòi hỏi thể chế, chính sách phải liên tục hoàn thiện, tránh tụt hậu.
Đặc biệt, thách thức từ biến đổi khí hậu, xu hướng thương mại xanh, yêu cầu phát triển bền vững đang đặt ra bài toán khó cho nền kinh tế. Do đó, hội nhập không chỉ là cơ hội mà còn là phép thử bản lĩnh, trí tuệ và khả năng thích ứng của Việt Nam.
Trong hành trình ấy, Bộ Công Thương luôn giữ vai trò nòng cốt, tiên phong. Từ việc trực tiếp đàm phán, ký kết đến tổ chức thực thi các cam kết quốc tế, Bộ Công Thương đã góp phần quan trọng đưa Việt Nam hội nhập thành công.
Các cơ quan thuộc Bộ đã chủ động phối hợp với doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng để tận dụng cơ hội từ các FTA, đồng thời tham mưu chính sách, giải pháp ứng phó kịp thời với thách thức mới. Chính sự chủ động, linh hoạt của Bộ Công Thương đã giúp hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam không chỉ dừng lại ở “tham gia” mà đang tiến tới “định hình, dẫn dắt”.
Nhờ Hiệp định EVFTA ngành da giày duy trì được xuất khẩu vào thị trường EU. Ảnh: Trần Việt/TTXVN
Ông Nguyễn Minh Khôi, Giám đốc Tư vấn chính sách tại Viện Tony Blair vì sự thay đổi toàn cầu (TBI) cho rằng: Giai đoạn 2025 – 2030, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tiếp tục là động lực then chốt của tăng trưởng Việt Nam. Để phát huy hiệu quả, Bộ Công Thương cần khẳng định rõ hơn vai trò dẫn dắt, không chỉ ở việc đàm phán và ký kết FTA mới mà còn ở nâng cao chất lượng thực thi, tận dụng tốt các hiệp định đã có, đồng thời chủ động định hình hợp tác thương mại khu vực, đặc biệt trong ASEAN. Đây sẽ là yếu tố quyết định để Việt Nam hội nhập sâu hơn và nâng cao vị thế trong cấu trúc thương mại toàn cầu.
Với cộng đồng doanh nghiệp, ông Nguyễn Minh Khôi khuyến nghị cần thay đổi tư duy từ “thụ hưởng chính sách” sang “tham gia kiến tạo chính sách”. Doanh nghiệp cần chủ động tiếp cận thông tin từ sớm, tích cực tham gia vào các kênh tham vấn chính sách, nhóm công tác và phiên thảo luận, góp ý liên quan đến đàm phán thương mại và hội nhập. Việc này không chỉ giúp doanh nghiệp sẵn sàng hơn khi FTA có hiệu lực mà còn có thể ảnh hưởng tích cực đến nội dung đàm phán theo hướng sát thực tế và phù hợp với năng lực nội tại.
Tại Nghị quyết số 59-NQ/TW năm 2024 của Bộ Chính trị về tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế trong tình hình mới đã xác định rõ tư duy từ chỗ hội nhập phát triển, Việt Nam tiến tới hội nhập để định hình luật chơi và tham gia dẫn dắt các khuôn khổ hợp tác. Đây là bước phát triển tư duy có tính đột phá, đưa Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập mới. Mục tiêu không chỉ tận dụng cơ hội từ bên ngoài mà còn chủ động đóng góp, xây dựng hệ thống thương mại quốc tế công bằng, minh bạch và bền vững.
Hướng tới năm 2045 đất nước kỷ niệm 100 năm thành lập, hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục là động lực then chốt để thực hiện khát vọng trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải kiên định với con đường hội nhập sâu rộng, nâng cao nội lực, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh và số hóa.
Đặc biệt, trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị, biến động toàn cầu, Việt Nam càng cần phát huy bản lĩnh, trí tuệ, tận dụng cơ hội để vừa phát triển kinh tế, vừa giữ vững độc lập, tự chủ. Bộ Công Thương cùng các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp sẽ tiếp tục đóng vai trò trung tâm, bảo đảm cho tiến trình hội nhập đi đúng hướng, mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước và người dân.
Uyên Hương/Bnews/vnanet.vn
Nguồn Bnews : https://bnews.vn/an-tuong-viet-nam-hanh-trinh-tu-khep-kin-den-diem-sang-ve-hoi-nhap/385590.html