Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ chủ trì giúp Chính phủ trình dự án Luật này. Sau khi tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội (ĐBQH), Đoàn ĐBQH, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, dự thảo Luật được trình Quốc hội khóa XV thông qua gồm 04 Chương và 38 Điều. Dự thảo Luật đã thể chế hóa các chính sách đề xuất xây dựng Luật đã được phê duyệt, quy định trình tự, thủ tục thực hiện các yêu cầu TTTPDS của Việt Nam và yêu cầu TTTPDS của nước ngoài, trách nhiệm của Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành, cơ quan có liên quan trong công tác này.
Dự thảo Luật có nhiều quy định mới so với quy định về TTTPDS của Luật Tương trợ tư pháp hiện hành như:
- Mở rộng phạm vi TTTPDS, theo đó bổ sung phạm vi cung cấp các giấy tờ, bản án, quyết định của tòa án có thông tin về hộ tịch; cung cấp thông tin pháp luật trên cơ sở nội luật hóa các điều ước quốc tế TTTPDS mà Việt Nam là thành viên.
- Giải thích các thuật ngữ được sử dụng trong Luật TTTPDS nhằm bảo đảm cách hiểu thống nhất.
- Bổ sung quy định điều kiện để áp dụng pháp luật nước ngoài trong trường hợp không có điều ước quốc tế (ĐƯQT) hoặc ĐƯQT không quy định.
- Ứng dụng công nghệ thông tin để cắt giảm thời gian chuyển các yêu cầu TTTPDS, nâng cao hiệu quả thực hiện.
- Mở rộng thẩm quyền thực hiện TTTPDS của nước ngoài để giảm tải công việc cho cơ quan nhà nước.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh cùng các đại biểu dự phiên làm việc chiều 11/8/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý 04 dự thảo Luật, trong đó có Luật Tương trợ tư pháp về dân sự. (Ảnh: quochoi.vn)
Trong số các quy định mới nêu trên phải kể đến quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài trong TTTPDS, theo đó Điều 4 dự thảo Luật quy định:
Điều 4. Áp dụng pháp luật nước ngoài
1. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong tương trợ tư pháp về dân sự được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Ngoại giao và cơ quan khác có liên quan xem xét yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự có đề nghị áp dụng pháp luật nước ngoài.
2. Trường hợp Việt Nam và nước ngoài không cùng là thành viên của điều ước quốc tế hoặc điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên không quy định thì việc áp dụng pháp luật nước ngoài được xem xét khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Cơ quan, người có thẩm quyền của nước ngoài đề nghị bằng văn bản về việc áp dụng pháp luật của nước đó;
b) Việc áp dụng pháp luật nước ngoài không trái với nguyên tắc tương trợ tư pháp về dân sự quy định tại Điều 5 của Luật này và hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Căn cứ quy định tại các điểm a và b khoản này và pháp luật có liên quan, Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Ngoại giao và cơ quan khác có liên quan xem xét, quyết định việc áp dụng pháp luật nước ngoài.
3. Việc tiếp nhận và xử lý yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự có đề nghị áp dụng pháp luật nước ngoài được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 30 của Luật này.
Về nguyên tắc việc thực hiện yêu cầu TTTPDS của nước ngoài sẽ được thực hiện theo quy định pháp luật của Việt Nam. Quy định tại Điều 4 cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài để thực hiện TTTPDS thể hiện thiện chí, sự hợp tác của Việt Nam trong giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, để đảm bảo chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực tư pháp, việc áp dụng pháp luật nước ngoài không đương nhiên mà cần đáp ứng đủ các điều kiện tại khoản 2, đồng thời việc cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài được Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan xem xét cẩn trọng.
Mặc dù vậy, vẫn có một số ý kiến cho rằng việc áp dụng pháp luật nước ngoài là vấn đề lớn, chính sách cho áp dụng pháp luật nước ngoài còn đang còn nhiều quan điểm khác nhau nên cần cân nhắc quy định này tại dự thảo Luật. Đối với ý kiến này, với tư cách là cơ quan chủ trì xây dựng dự án Luật, Bộ Tư pháp đã có giải thích:
Thứ nhất, Luật TTTPDS là luật về thủ tục, hỗ trợ quá trình giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài cần yêu cầu TTTPDS. Do đó, việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong TTTPDS thực chất là áp dụng trình tự, thủ tục thực hiện (cách thức thực hiện) yêu cầu của phía nước ngoài theo quy định của pháp luật nước ngoài trong những trường hợp cụ thể. Điều này không điều chỉnh việc áp dụng pháp luật về nội dung để giải quyết vụ việc dân sự đó.
Thứ hai, việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong TTTPDS không phải đương nhiên, Điều 4 dự thảo Luật có quy định chặt chẽ về điều kiện áp dụng pháp luật nước ngoài.
Thứ ba, quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài là luật hóa một trong các chính sách trong đề nghị xây dựng Luật TTTPDS đã được phê duyệt. Cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài trong các quan hệ pháp luật dân sự không phải là vấn đề mới, đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam có quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài, đặc biệt là Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Thứ tư, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều quốc gia cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài trong TTTPDS, ví dụ: Điều 15 Luật TTTPDS của Hàn Quốc, Điều 279 Bộ luật Tố tụng dân sự của Trung Quốc, Điều 11a Luật Tư pháp quốc tế của Thụy Sỹ.
Hy vọng với những điểm mới của dự thảo Luật TTTPDS, trong đó có quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài sẽ giải quyết được những vướng mắc, bật cập hiện nay trong hoạt động TTTPDS, nâng cao hiệu quả của công tác này, từ đó hỗ trợ các cơ quan tư pháp của Việt Nam có đủ cơ sở giải quyết các vụ việc dân sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức có liên quan.
Phòng Tư pháp quốc tế và Tương trợ tư pháp, Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp