Lãi suất huy động chịu sức ép tăng
Từ đầu tháng 11 đến nay, nhiều ngân hàng tiếp tục tăng lãi suất huy động. Chẳng hạn, VPBank tăng thêm 0,3%/năm so với tháng trước. Theo đó, lãi suất gửi tiết kiệm tại quầy kỳ hạn 1-5 tháng ở mức 4,2%/năm cho khoản gửi dưới 10 tỷ đồng và tăng lên 4,3-4,4%/năm nếu gửi trên mức này. Kỳ hạn dài trên 12 tháng dao động từ 5,3-5,6%/năm, trong khi gửi online được hưởng cao hơn 0,1-0,2%/năm, mức cao nhất đạt 5,8%/năm.
BVBank triển khai chương trình “10 ngày vàng lãi suất” với mức cao nhất 6,8%/năm cho kỳ hạn 12 tháng gửi online. Cụ thể, từ ngày 3-13/11/2025, khách hàng được cộng thêm đến 1,2 điểm phần trăm các kỳ hạn 1 tháng (4,75%/năm), 6 tháng (6,5%/năm), 12 tháng (6,8%/năm)... BVBank cũng giới thiệu chứng chỉ tiền gửi online với kỳ hạn linh hoạt 6-15 tháng, lãi suất tối đa 6,3%/năm cho kỳ hạn 15 tháng…
Trước đó, tính đến cuối tháng 10/2025, trung bình lãi suất kỳ hạn 3 tháng và 12 tháng của nhóm ngân hàng thương mại tư nhân lần lượt là 4,1%/năm và 5,34%/năm, trong khi nhóm ngân hàng quốc doanh giữ ổn định ở mức 4,7%/năm. Trung bình lãi suất kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại tăng 0,15 điểm phần trăm so với đầu năm, lên mức 5%/năm vào cuối tháng 10. Việc mặt bằng lãi suất tiền gửi rục rịch tăng từ đầu quý IV/2025 phản ánh ngân hàng gia tăng huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng tăng cao theo chu kỳ mùa vụ.
Như vậy, sau thời gian dài duy trì ở mức thấp, mặt bằng lãi suất đang điều chỉnh khi nhiều ngân hàng thông báo tăng lãi suất huy động. Công ty Chứng khoán Vietcomban (VCBS) nhận định tăng trưởng tín dụng cả năm 2025 đạt từ 18-20%, đồng thời dự báo dư địa giảm lãi suất huy động sẽ hạn chế, thay vào đó có xu hướng tăng nhẹ.
Tín dụng nhiều khả năng bứt tốc vào cuối năm nay khi Ngân hàng Nhà nước nới chỉ tiêu hướng đến bỏ room tín dụng từ năm tới, buộc các ngân phải đẩy mạnh huy động vốn nhằm tránh rủi ro thiếu hụt thanh khoản cục bộ. Tuy vậy, mặt bằng lãi suất huy động sẽ chỉ nhích nhẹ, chứ khó có khả năng tăng mạnh. Nhiều thành viên thị trường cũng nhận định, lãi suất huy động có thể tăng, nhưng vẫn thấp hơn mặt bằng chung so với trước đây.
Theo ông Phạm Như Ánh - Tổng giám đốc MB, việc các ngân hàng tăng lãi suất huy động thời gian qua nguyên nhân một phần do áp lực từ tỷ giá. Nhưng nếu lãi suất có tăng thêm một chút thì cũng vẫn thấp so với mặt bằng trước đây. Điều này không có gì nghiêm trọng, không ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế.
Về dài hạn, Việt Nam vẫn có điều kiện để giảm lãi suất, nhưng ngắn hạn chưa thể đảo chiều ngay. TS. Nguyễn Tú Anh, chuyên gia tài chính - ngân hàng đưa ra nhận định, việc nhiều ngân hàng trung ương lớn trên thế giới giảm lãi suất giúp Việt Nam có điều kiện thuận lợi trong điều hành tỷ giá và lãi suất. Nếu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) giảm thêm lãi suất USD trong tháng 12 tới thì lãi suất trong và ngoài nước không còn quá chênh lệch.
Ông Suan Teck Kin - Giám đốc Khối Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, Ngân hàng UOB (Singapore) đánh giá, với kết quả tăng trưởng kinh tế tích cực của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2025 và chưa có dấu hiệu giảm tốc, Ngân hàng Nhà nước có rất ít dư địa để nới lỏng chính sách tiền tệ. Trong khi đó, áp lực lạm phát vẫn hiện hữu, với mức lạm phát tháng 9/2025 đạt 3,38% - tăng nhẹ so với mức 3,24% của tháng trước đó. Tính từ đầu năm, lạm phát trung bình đạt 3,3% tổng thể và 3,2% cơ bản, trong đó lạm phát cơ bản đã vượt mức của năm 2024 (2,9%) và năm 2023 (3%). Theo ông Suan Teck Kin, lãi suất sẽ giữ nguyên trong thời điểm hiện tại.
Giới phân tích cho rằng, mặt bằng lãi suất hiện nay tương đối ổn định, không thể điều chỉnh một cách đơn lẻ mà phải đặt trong tổng thể, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa người vay và người gửi tiền, nên khó xuống mức thấp hơn nữa vào cuối năm.
Tỷ giá dự báo giảm dần
TS. Châu Đình Linh - Trường đại học Ngân hàng TP. HCM phân tích, nếu Fed tiếp tục giảm thêm lãi suất USD trong tháng 12 tới thì áp lực từ dòng vốn FDI rút ra để tìm lợi suất cao hơn ở Mỹ sẽ giảm bớt, giúp Ngân hàng Nhà nước dễ kiểm soát tỷ giá hơn. Nhìn chung, với quyết định hạ lãi suất của Fed vào cuối tháng 10/2025 và dự báo giảm thêm trong tháng cuối năm không chỉ tạo ra dư địa cho chính sách tiền tệ Việt Nam, mà còn là cơ hội để Ngân hàng Nhà nước tiếp tục kiên định định hướng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, duy trì ổn định lãi suất góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP theo mục tiêu trên 8% Chính phủ đặt ra cho năm nay...
Theo ông Linh, dù chính sách tiền tệ không còn dưa địa để nới lỏng thêm, nhưng sẽ vẫn duy trì ổn định như hiện nay để kích cầu tín dụng, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Điều này được minh chứng qua con số tín dụng tăng trưởng cao trong 9 tháng đầu năm nay.
Còn ông Suan Teck Kin nhìn nhận, thị trường ngoại hối cũng là một yếu tố quan trọng trong điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước. Đồng Việt Nam (VND) là đồng tiền mất giá mạnh thứ hai tại châu Á trong 9 tháng đầu năm 2025, giảm 3,55% so với đồng USD, chỉ thấp hơn mức giảm 3,58% của đồng rupee Ấn Độ và cao hơn một chút so với mức giảm 3,38% của đồng rupiah Indonesia.
Ngược lại, các đồng tiền khác trong khu vực hưởng lợi từ xu hướng suy yếu của đồng USD, với mức tăng dao động từ 7,65% đối với đồng TWD (Đài Loan, Trung Quốc) đến 2,5% đối với đồng CNY (Nhân dân tệ ngoài Trung Quốc Đại lục).
Tỷ giá USD/VND hiện vẫn duy trì gần mức thấp kỷ lục 26.436 đồng/USD ghi nhận vào tháng 8/2025. Trong mối tương quan giữa tỷ giá USD/VND và chỉ số DXY (sức mạnh đồng USD) khá hạn chế, VND có thể sẽ phản ứng chậm hơn so với các đồng tiền trong khu vực trước xu hướng suy yếu của USD, đặc biệt khi Fed tiến hành các đợt cắt giảm lãi suất tiếp theo. Trong bối cảnh đó, UOB duy trì quan điểm thận trọng đối với triển vọng của VND và điều chỉnh dự báo tỷ giá USD/VND lần lượt đạt 26.400 đồng/USD trong quý IV/2025; 26.300 đồng/USD vào quý I/2026; 26.200 đồng/USD vào quý II/2026 và 26.100 đồng/USD vào quý III/2026.
Chỉ số DXY hiện vẫn duy trì dưới mốc 100 điểm và giới phân tích cho rằng, nếu Fed giảm thêm lãi suất trong tháng 12/2025 thì kỳ vọng xu hướng suy yếu của USD sẽ kéo dài thêm, qua đó kéo tỷ giá đồng USD/các đồng tiền châu Á giảm trong quý cuối năm nay. Tuy nhiên, theo UOB, tốc độ giảm giá của USD so với các đồng tiền châu Á sẽ chỉ ở mức vừa phải, do triển vọng tăng trưởng kinh tế còn nhiều thách thức tại khu vực và lập trường chính sách tiền tệ ôn hòa của các ngân hàng trung ương châu Á có thể làm giảm sức hấp dẫn đầu tư vào tiền tệ khu vực.
Ông Jung Hyo Chang - Giám đốc Bộ phận Giao dịch ngoại hối và Phái sinh, Ngân hàng Shinhan Việt Nam nhận định, tong bối cảnh đồng USD suy yếu, khả năng VND giảm mạnh là khó dự đoán, song nhiều dự báo đưa ra, tỷ giá USD/VND sẽ có xu hướng giảm dần theo diễn biến của chỉ số DXY sau khi Fed nối lại chu kỳ giảm lãi suất và dự báo giảm thêm từ nay đến cuối năm.
Công ty Chứng khoán MB (MBS) cũng đánh giá rằng, việc Fed giảm lãi suất trong tháng 9, tháng 10 vừa qua và được kỳ vọng tiếp tục giảm thêm 0,25 điểm phần trăm trong tháng 12 tới để nâng tổng mức giảm năm 2025 lên 0,75 điểm phần trăm sẽ là yếu tố giúp “hạ nhiệt” tỷ giá USD/VND vào cuối năm, qua đó tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng và giữ môi trường lãi suất thấp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Fed giảm lãi suất, tỷ giá bớt áp lực. Khi sức ép tỷ giá giảm bớt và trong bối cảnh USD hạ nhiệt, Ngân hàng Nhà nước sẽ không cần nâng lãi suất điều hành để ứng phó trong tháng cuối năm, thay vào đó cần tập trung hơn vào chính sách tài khóa. Bởi thực tế cho thấy, lãi suất tiết kiệm hiện có xu hướng nhích tăng khi nhu cầu vốn được dự báo tăng cao trong mùa lễ tết. Một khi tín dụng tăng, ngân hàng cần tăng cường thanh khoản đáp ứng cầu vốn. Nhưng lãi suất cho vay được cho là khó sớm tăng trở lại cuối năm nay, nhất là với lãi vay doanh nghiệp, nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Thùy Vinh