Lãi suất huy động liên tục tăng
Liên tục từ tháng 10 đến nay, hàng loạt ngân hàng đã tăng lãi suất huy động. Chỉ riêng tuần trước, đã có ít nhất 5 nhà băng điều chỉnh tăng, gồm MBV (tăng từ 0,05 – 0,5% tùy kỳ hạn); LPBank (tăng 0,1 – 0,3%/năm ở một số kỳ hạn); KienlongBank (tăng nhẹ 0,2%/năm ở kỳ hạn 1-4 tháng và kỳ hạn 6-7 tháng…); PVCombank (tăng đồng loạt 0,5%/năm đối với tiền gửi trực tuyến); Bao Viet Bank (tăng mạnh 0,5 -0,6%/năm với tiền gửi kỳ hạn 1-2 tháng; tăng 0,1%/năm cho các kỳ hạn 3-5 tháng…).
Tính từ tháng 10 đến nay, đã có khoảng hơn chục ngân hàng khác tăng lãi suất tiết kiệm, như: Sacombank, VPBank, SHB, HDBank, GPBank, NCB, BVBank, Bac A Bank.
Động thái tăng lãi suất trên diện rộng cho thấy cuộc đua huy động vốn đã sôi động trở lại trong quý IV/2025, nhất là ở nhóm ngân hàng thương mại cổ phần, nhằm đón đầu nhu cầu vốn tăng cao dịp cuối năm và thu hẹp chênh lệch giữa tăng trưởng huy động - cho vay.
Không chỉ trên thị trường dân cư, mà trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất cũng được đẩy lên rất cao. Trong tuần trước, lãi suất kỳ hạn qua đêm đã có lúc được đẩy lên mốc 6,1%/năm (11/11), trước khi hạ nhiệt nhẹ về mức 5,4%/năm.
Tương tự, lãi suất các kỳ hạn từ 1 tuần tới 3 tháng dù đã điều chỉnh đôi chút nhưng vẫn ở mức khá cao, hiện dao động từ 5,46% - 6,3%/năm.
Lãi suất tăng trên cả thị trường dân cư lẫn thị trường liên ngân hàng
Lý giải cho xu hướng tăng nhẹ lãi suất, Tổng Giám đốc MB Phạm Như Ánh cho rằng có hai nguyên nhân cốt lõi. Trong đó, yếu tố trực tiếp và rõ ràng nhất là áp lực lên tỷ giá đã chạm đến ngưỡng giới hạn cho phép của nhà điều hành. Mục tiêu tăng trưởng tỷ giá cho cả năm được đặt ra ở mức 3-5%, và hiện tại, không gian để sử dụng công cụ này gần như không còn.
Trong bối cảnh tỷ giá chịu sức ép, việc tăng lãi suất sẽ giúp giảm sức hấp dẫn của việc nắm giữ ngoại tệ, qua đó góp phần bảo vệ giá trị của đồng Việt Nam.
Ngoài yếu tố tỷ giá, chính sách tiền tệ của Mỹ cũng tác động đáng kể đến mặt bằng lãi suất tại Việt Nam. Hiện Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) vẫn duy trì chính sách thắt chặt với mức lãi suất USD quanh 3,75-4%. Mặt bằng cao này khiến dòng vốn quốc tế có xu hướng ưu tiên các thị trường có lợi suất hấp dẫn hơn, làm giảm khả năng thu hút vốn vào các nền kinh tế mới nổi.
Theo ông Phạm Như Ánh, khi dòng tiền toàn cầu chưa quay trở lại mạnh mẽ, dư địa giảm lãi suất trong nước sẽ bị thu hẹp, buộc chính sách điều hành của Việt Nam phải linh hoạt hơn để cân bằng giữa ổn định tỷ giá và hỗ trợ tăng trưởng.
Mặt bằng lãi suất của Việt Nam vẫn thấp
Trong báo cáo vĩ mô mới công bố, Chứng khoán Vietcombank (VCBS) dự báo lãi suất huy động sẽ có xu hướng tăng vào cuối năm, đặc biệt tại nhóm ngân hàng thương mại cổ phần, chủ yếu do hai yếu tố.
Thứ nhất, áp lực thanh khoản trong hệ thống ngân hàng gia tăng khi tín dụng dự kiến sẽ bứt tốc mạnh vào giai đoạn cuối năm; với mức tăng trưởng cả năm ước đạt 18-20%. Tính đến cuối tháng 10, tín dụng tăng 13,37% so với cuối năm 2025, cho thấy nhu cầu vốn mạnh mẽ trong nền kinh tế
Thứ hai, rủi ro tỷ giá USD/VND vẫn hiện hữu; trong bối cảnh cầu ngoại tệ tăng vào mùa cao điểm nhập khẩu cuối năm.
Theo đó, VCBS dự báo lãi suất huy động có thể tăng trở lại tại một số ngân hàng thương mại cổ phần vào cuối năm nhằm đáp ứng nhu cầu vốn và kiểm soát rủi ro hệ thống, song vẫn được duy trì ở mặt bằng thấp theo định hướng hỗ trợ tăng trưởng.
Dù áp lực tăng lãi suất hiện hữu, song theo các chuyên gia, mặt bằng lãi suất của Việt Nam vẫn thấp so với thế giới. Ông Phạm Như Ánh cho rằng hiện lãi suất cho vay phục vụ sản xuất - xuất nhập khẩu phổ biến 4,5-5,5%, thấp hơn đáng kể so với Mỹ (khoảng 7,5%). Đây là lợi thế giúp doanh nghiệp duy trì chi phí vốn hợp lý và tạo sức hút với các doanh nghiệp FDI, vốn đang mở rộng sản xuất tại Việt Nam trong năm nay.
TS. Nguyễn Xuân Thành, Giảng viên cao cấp Đại học Fulbright Việt Nam cũng cho hay, hiện nay, so với các đối tác kinh tế lớn thì chúng ta lạm phát cao nhất, nhưng lãi suất của chúng ta lại thấp. Lãi suất của Việt Nam đang ngang bằng với Hoa Kỳ, thấp hơn Trung Quốc, trong khi chúng ta lạm phát cao nhất.
Do đó, cho năm 2016, ông Nguyễn Xuân Thành cho rằng, cho dù Fed có thể giảm lãi suất nhưng chúng ta không thể chạy theo và có khi cũng phải chấp nhận lãi suất thị trường nhích lên một chút.
“Theo tôi chính sách tiền tệ là phải điều hành thận trọng, nhưng không thể thận trọng quá vì vẫn phải thực hiện mục tiêu tăng trưởng, nên vẫn phải duy trì chính sách mở rộng, duy trì mặt bằng lãi suất hiện nay nhưng hướng ưu tiên cho ổn định tỷ giá trong năm 2026” – ông nói.
Nhật Linh