Áp lực nợ xấu 9 tháng đầu năm 'trái ngược' giữa các ngân hàng

Áp lực nợ xấu 9 tháng đầu năm 'trái ngược' giữa các ngân hàng
14 giờ trướcBài gốc
Theo nhận định của Công ty Cổ phần Xếp hạng Tín nhiệm Đầu tư Việt Nam (VIS Rating), tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ngân hàng dự kiến sẽ giảm từ 10–20 điểm cơ bản trong quý cuối năm, nhờ tăng cường xóa nợ vào cuối năm và triển khai Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi được kỳ vọng sẽ đẩy nhanh tiến trình thu hồi nợ và nâng cao tính minh bạch.
Các ngân hàng lớn vẫn đang trên đà hoàn thành mục tiêu lợi nhuận cả năm, được thúc đẩy bởi tăng trưởng tín dụng dài hạn mạnh mẽ hơn và chi phí tín dụng thấp hơn. Việc cải thiện tỷ lệ dự phòng rủi ro cũng cho thấy khả năng hấp thụ rủi ro đang dần được củng cố, mặc dù mức vốn vẫn còn mỏng. Ngược lại, các ngân hàng nhỏ tiếp tục đối mặt với hạn chế về thanh khoản, thể hiện qua tỷ lệ cho vay trên huy động cao và sự phụ thuộc vào nguồn vốn thị trường ngắn hạn.
Một số ngân hàng lớn đã gia tăng nợ xấu
Tỷ lệ nợ có vấn đề toàn ngành giữ ổn định ở mức 2.3% trong 9 tháng đầu năm 2025, với tỷ lệ hình thành nợ xấu mới giảm 30 điểm cơ bản theo quý (QoQ). Các ngân hàng quốc doanh (SOB) và một số ngân hàng lớn có ít dư nợ với các nhà phát triển bất động sản gặp khó khăn ghi nhận tỷ lệ nợ xấu nhờ vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp được cải thiện (ví dụ: BID, CTG), và tỷ lệ nợ quá hạn từ các khoản vay mua nhà cá nhân giảm (ví dụ: ACB, TCB). Ngược lại, một số ngân hàng quy mô lớn và vừa khác ghi nhận mức tăng nợ quá hạn từ các doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng tái tạo (ví dụ: MBB), các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) liên quan đến xuất nhập khẩu và ngành hàng không (ví dụ: STB), hoặc từ các khoản vay mua nhà cá nhân như TPB (xếp hạng AA-, ổn định) và HDB.
Ảnh minh họa
VIS Rating dự đoán tỷ lệ nợ có vấn đề toàn ngành sẽ giảm xuống còn 2.1–2.2% trong quý 4/2025, nhờ vào việc tăng cường xóa nợ vào cuối năm, trong khi Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2025, có hiệu lực từ tháng 10/2025, sẽ giúp các ngân hàng thu hồi nợ nhanh hơn. Khả năng sinh lời mặc dù chi phí vốn tăng cao, khả năng sinh lời của toàn ngành duy trì ổn định, được hỗ trợ bởi tăng trưởng mạnh của thu nhập ngoài lãi.
Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản bình quân (ROAA) của toàn ngành giữ ổn định ở mức 1.5% so với cùng kỳ năm trước (YoY) trong 9 tháng 2025, nhờ vào thu nhập tăng từ phí dịch vụ, hoạt động đầu tư và thu hồi nợ xấu. VPB dẫn đầu về cải thiện ROAA trong nhóm ngân hàng lớn, nhờ vào lợi nhuận đóng góp từ công ty con – công ty chứng khoán và chi phí tín dụng thấp hơn, trong khi CTG hưởng lợi từ hoạt động thu hồi nợ xấu mạnh mẽ. Trong khi đó, một số ngân hàng tư nhân lớn và vừa ghi nhận ROAA giảm 30 điểm cơ bản YoY, do biên lãi ròng (NIM) thu hẹp khi mở rộng sang các khoản vay doanh nghiệp có lợi suất thấp hơn (ví dụ: ACB, VIB), chi phí huy động tăng cao (ví dụ: TPB, EIB), và chi phí tín dụng gia tăng (ví dụ: MBB, VIB).
Theo VIS Rating, trong 9 tháng đầu năm 2025, có 15/27 ngân hàng đang trên đà hoàn thành mục tiêu lợi nhuận, chủ yếu là các ngân hàng tư nhân lớn và SOB.
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu hữu hình trên tổng tài sản hữu hình (TCE/TA) của toàn ngành giữ ổn định theo quý ở mức 8.4% trong 9 tháng 2025. Một số ngân hàng lớn và vừa có tốc độ tăng trưởng tài sản cao trong kỳ (ví dụ: NAB, VPB, CTG) ghi nhận mức giảm TCE/TA trung bình khoảng 35 điểm cơ bản QoQ.
Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLCR) của toàn ngành cải thiện 5% QoQ, đạt mức khiêm tốn 84% trong 9T2025, dẫn đầu bởi các ngân hàng lớn (ví dụ: CTG, ACB, TCB và BID) nhờ vào mức nợ xấu giảm.
Nguồn vốn và thanh khoản rủi ro thanh khoản vẫn ở mức cao đối với các ngân hàng nhỏ do phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn vốn thị trường ngắn hạn để hỗ trợ tăng trưởng tín dụng.
Tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) trên tổng dư nợ toàn ngành giảm 1% QoQ, xuống còn 19% trong 9 tháng 2025, đặc biệt tại các ngân hàng nhỏ như ABB (xếp hạng A-, ổn định), BAB, KLB, VBB.
Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi khách hàng (LDR) của toàn ngành đạt mức cao nhất trong 5 năm là 111%, do tăng trưởng tín dụng mạnh vượt xa tốc độ tăng trưởng tiền gửi. Áp lực thanh khoản thể hiện rõ nhất ở các ngân hàng nhỏ (ví dụ: ABB, BAB, KLB, VBB) và có khả năng sẽ tiếp tục kéo dài trong bối cảnh các ngân hàng này phụ thuộc ngày càng nhiều vào nguồn vốn thị trường ngắn hạn và nhu cầu tín dụng cao. Nguồn tiền gửi từ Kho bạc Nhà nước sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Đăng Khôi
Nguồn Kinh tế Môi trường : https://kinhtemoitruong.vn/ap-luc-no-xau-9-thang-dau-nam-trai-nguoc-giua-cac-ngan-hang-104608.html