Truyện Kiều không mô tả tình yêu như một con đường thẳng đứng theo chuẩn mực đạo lý, TS Bùi Trân Phượng chia sẻ trong buổi đọc Truyện Kiều.
Theo bà, đại thi hào Nguyễn Du đã đặt tình yêu trong thế nghiêng ngả giữa khát vọng cá nhân và sức nặng văn hóa. Mỗi mối tình của Thúy Kiều là một biến thể, khi thì lý tưởng hóa, khi thì bất lực, khi lại vượt khỏi mọi tiêu chuẩn tình cảm thông thường.
Nguyễn Du đã để nàng Kiều qua ba cách yêu với ba người đàn ông. Qua đó, ông dựng nên bức tranh tâm lý phức tạp của một người phụ nữ trong xã hội nhiều ràng buộc. Tình yêu trong Truyện Kiều không gắn chặt với khái niệm trinh tiết hay thủy chung. Cái gọi là "chữ trinh" chỉ hiện ra như một ám ảnh đạo đức nhưng cũng đồng thời là thứ có thể thương lượng, xét lại hoặc vượt qua.
Từ sự chủ động của Kiều trong việc rời bỏ, tái hợp hay từ chối quan hệ thể xác, Truyện Kiều mở ra một hình dung khác về đạo lý. Ở đó, người phụ nữ có quyền quyết định thân thể và cảm xúc của chính mình, dù bị định hình bởi tư tưởng phong kiến hà khắc.
Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải
Ba mối tình của Thúy Kiều với Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải hé lộ cách người Việt nhìn nhận tình yêu, sự thủy chung và vai trò của nam giới trong các mối quan hệ. TS Bùi Trân Phượng phân tích ba người đàn ông ấy như ba kiểu hình tình yêu mà xã hội Việt Nam từng chấp nhận, mong muốn hoặc tưởng tượng.
Kim Trọng là người đại diện cho tình yêu lý tưởng. Anh luôn giữ lời hứa dù trong hoàn cảnh phải lấy em gái người yêu. Khi Kiều trở lại sau biến cố, Kim Trọng thể hiện một quan điểm rất hiện đại khi khẳng định: “Lọ là chăn gối, mới ra sắt cầm”.
Qua đó, chàng cho rằng tình nghĩa và sự gắn bó tâm hồn mới là nền tảng quan trọng. Chính sự bao dung này đã giúp Kiều vượt qua mặc cảm nhơ nhuốc để quay về kết “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.
Trong khi đó, Thúc Sinh là một người yêu chân thành, đầy cảm xúc nhưng không đủ bản lĩnh. Anh từng dùng tiền và trí để chuộc Kiều khỏi lầu xanh, dám cãi lại cha, cầu hôn bằng lời thề “đá vàng”.
Tuy nhiên, khi Kiều bị Hoạn Thư đày đọa, Thúc Sinh hoàn toàn bất lực. Anh chỉ biết đau đớn, không thể hành động, thể hiện sự yếu đuối thường thấy ở một người đàn ông “tốt” nhưng không đủ sức bảo vệ người mình yêu.
Nỗi đau của Kiều khi hầu rượu cho Thúc Sinh và Hoạn Thư qua nét vẽ của họa sĩ Phan Cẩm Thượng.
Dù vậy, TS Phượng đánh giá Thúc Sinh vẫn là nhân vật có tình cảm chân thật. Khi tái ngộ Kiều trong phiên xử án của Từ Hải, anh vừa mừng thầm cho Kiều, vừa lo sợ cho vợ cả. Theo bà, kiểu chung thủy này là thứ chung thủy phổ biến trong đời sống xã hội Việt Nam.
Từ Hải thì hoàn toàn khác. Đây là người đàn ông không bị chi phối bởi vẻ bề ngoài mà đến với Kiều vì khí chất. Ông chỉ thể hiện sự thấu hiểu với thân phận thúy Kiều. Khi nói “anh hùng mới biết anh hùng”, Từ Hải đặt Kiều ngang hàng với mình, một điều chưa từng xuất hiện trong quan niệm truyền thống về nữ giới.
Trong mối quan hệ này, Kiều không chỉ là người yêu mà còn là bạn đồng hành, người cùng ông thực hiện các giá trị lớn hơn tình yêu như báo ân, báo oán, phục thù, hoàn lương.
TS Phượng cho rằng tình yêu giữa Từ Hải và Kiều không dựa trên sự hấp dẫn giới tính, mà dựa trên sự đồng điệu về lý tưởng. Điều này cho thấy một kiểu hình đàn ông mà văn hóa Việt chỉ dám tưởng tượng. Từ Hải là một người yêu bạn đời như tri kỷ, đặt người phụ nữ lên ngang tầm đạo đức và trí tuệ, không chỉ là đối tượng che chở hay thụ hưởng.
Ba người đàn ông, ba kiểu tình yêu từ lý tưởng, bất lực đến phi thường đã tạo nên bản đồ tâm lý đa chiều cho nhân vật Thúy Kiều. Qua đó, Truyện Kiều phản ánh sâu sắc một xã hội mà chữ “chung thủy” không chỉ là điểm đến, mà là một hành trình nội tâm đầy biến động và thử thách.
TS Bùi Trân Phượng trong một buổi đọc Truyện Kiều tại không gian văn hóa Cà phê Thứ Bảy Trẻ ở TP.HCM cuối tháng 9. Ảnh: Đức An.
Chữ trinh trong văn hóa Việt
Nếu ba mối tình trong Truyện Kiều đặt lại giới hạn của tình yêu, thì hành trình giữ hay từ bỏ chữ “trinh” của Thúy Kiều lại mở ra một cuộc đối thoại phức tạp hơn giữa văn hóa, đạo đức và tự do cá nhân.
TS Bùi Trân Phượng cho rằng Nguyễn Du đã không mô tả chữ “trinh” theo cách thông thường của văn học trung đại là gắn chặt với thể xác. Ông đã chuyển nó thành một phạm trù tinh thần, phản ánh phẩm giá, lòng tự trọng và năng lực tự quyết của người phụ nữ.
Ở mối tình đầu với Kim Trọng, Kiều chủ động giữ gìn trinh tiết như một hình thức bảo vệ giá trị bản thân. Lúc ấy, nàng tin rằng nếu dễ dãi, sau này tình yêu sẽ không còn được tôn trọng. Tuy nhiên, trải qua những cú ngã liên tiếp trong đời, quan niệm ấy dần thay đổi. Khi gặp lại Kim Trọng, Kiều không còn xem trinh tiết là điều kiện để được yêu, mà là gánh nặng khiến nàng mặc cảm. Nàng từ chối làm vợ theo nghĩa thể xác, dù vẫn còn nghĩa tình.
Theo TS Phượng, điều quan trọng là Kim Trọng đã gỡ được nút thắt tâm lý ấy bằng cách phủ định quan niệm truyền thống: “Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm”. Chính cách ứng xử bao dung này đã khôi phục lòng tin nơi Kiều, giúp nàng chấp nhận trở về, dù biết tình yêu cũ đã phai.
Ở mối quan hệ với Thúc Sinh, Kiều bước vào cuộc sống vợ chồng vì sự cảm mến và tình nghĩa. Song, khi nhận ra tình yêu không thể cứu mình khỏi sự đày đọa của Hoạn Thư, nàng đã chủ động rời đi. Từ đây, chữ “trinh” trở thành biểu tượng cho sự tự do lựa chọn. Kiều từ chối làm nạn nhân lần nữa và quyết định tự cứu mình.
TS Phượng nhận định hành vi này không phải là phá vỡ chuẩn mực, mà là tái lập một chuẩn mực mới. Lúc này, phụ nữ không còn bị ràng buộc bởi danh tiết, mà có quyền quyết định thân phận. Đến khi tái ngộ Thúc Sinh, Kiều không còn là người vợ nhưng vẫn biết ơn và trả nghĩa. Đó là cách thể hiện phẩm giá rất riêng của nàng.
Qua đó, Nguyễn Du xây dựng một hình ảnh Thúy Kiều vừa đa đoan vừa tự chủ. Chữ trinh không bị viết thành huyền thoại hay bị phủ định. Ngược lại, nó được đặt trong mối quan hệ giữa đạo đức cá nhân và quyền lựa chọn. Điều này cho thấy văn hóa Việt từ rất sớm nuôi dưỡng một tinh thần khoan dung, biết thấu cảm và tôn trọng quyền được yêu theo cách của mỗi con người.
Đức An - Hoa Nhiên