Bức thư của liệt sỹ Lê Văn Huỳnh được trưng bày tại Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị. (Ảnh: Nguyên Linh/TTXVN)
Chiến dịch 81 ngày đêm giữ Thành cổ mùa Hè đỏ lửa năm 1972 đã trở thành biểu tượng bất tử, tinh thần quả cảm của một thế hệ đã hy sinh vì Tổ quốc.
Trong muôn vàn di vật để lại, có những bức thư trở thành chứng tích sống động về lý tưởng, niềm tin và tình yêu nước cháy bỏng.
Nhân kỷ niệm Ngày Thương binh-Liệt sỹ 27/7, TTXVN giới thiệu chùm bài viết “Những lá thư đặc biệt từ Thành cổ Quảng Trị” do phóng viên tại địa bàn thực hiện, như lời tri ân với những anh hùng đã ngã xuống vì Tổ quốc!
Một lần nữa, những lá thư cuối cùng được viết từ chiến trường Thành cổ năm xưa của các chiến sỹ lại làm lay động hàng triệu trái tim những người Việt Nam hôm nay.
Bài 1: Ký ức về chiến dịch 81 ngày đêm giữ Thành cổ mùa Hè năm 1972
Quảng Trị, tháng 5/1999, nắng hè như dội lửa trên nền đất Thành cổ - nơi từng là điểm nóng khốc liệt bậc nhất trong cuộc chiến năm 1972. Giữa những lớp đất cháy nắng và ký ức chưa từng ngủ yên, một căn hầm nhỏ được phát hiện.
Trong lòng đất, 5 bộ hài cốt nằm cạnh nhau, chưa từng chia lìa suốt 27 năm. Một hài cốt trong tư thế ngồi tựa vào vách hầm, hai tay ôm chặt chiếc xắc cốt vào ngực khiến nhiều người lặng đi. Bên trong chiếc xắc cốt ấy không chỉ có thư, nhật ký, sổ tay… mà là một cuộc đời được gói lại bằng mùi đất ẩm, mùi thời gian và hơi thở cuối cùng của một trái tim từng thổn thức yêu thương.
Ánh đèn pin trong lòng đất
Cựu chiến binh Lê Bá Dương - một người lính từng giữ từng tấc đất Thành cổ, trở lại Quảng Trị trong chuyến hành hương thường niên cùng đồng đội. Ông nhận được tin báo: Trong khi thi công hệ thống thoát nước quanh khu vực bảo tàng Thành cổ, công nhân đã phát hiện một hầm chôn những người lính. “Khi tôi đến nơi, 5 bộ hài cốt đã được đưa lên khỏi lòng đất, đặt ngay ngắn trên những tấm vải đỏ. Một bộ hài cốt vẫn vẫn giữ chặt chiếc xắc cốt trong tay như không muốn rời...” - ông Dương kể lại, giọng nghẹn đi, dù hơn 2 thập kỷ đã trôi qua.
Trong xắc cốt, có một cuốn sổ tay Đảng viên, 3 bức thư và một cuốn nhật ký. Tất cả được bọc kỹ trong túi nylon. Khi mở ra, mùi đất, mồ hôi, máu và mùi của thời gian như ùa ra. Những dòng chữ nhòe nước, giấy dính bết lại như từng được viết trong hơi thở cuối cùng.
Di vật của liệt sỹ Lê Binh Chủng được trưng bày tại Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị. (Ảnh: TTXVN phát)
Đó là bút tích của Đại úy Lê Binh Chủng, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 3, Bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị. Những trang đầu là ghi chép công tác, nhưng càng về sau, sổ tay chuyển thành nhật ký sinh tử. Nét chữ nhạt dần, run lên, như được viết dưới ánh sáng yếu ớt của chiếc đèn pin trong căn hầm đã bị bom AD-6 đánh sập đầu tháng 8/1972.
Căn hầm đổ. Tường thành vỡ. Năm người bị chôn vùi. Không ai bên ngoài nghe thấy họ. Bên trong, trong bóng tối đặc quánh và tuyệt vọng. Họ chờ. Họ sống. Và rồi, lần lượt, họ ra đi...
Năm ngày sống nhờ thư của vợ
Là người chỉ huy, cũng là người anh cả của đội hình 5 người, Đại úy Lê Binh Chủng vừa vuốt mắt đồng đội, vừa cố giữ mình tỉnh táo. Không nước. Không lương khô. Thiếu cả dưỡng khí. Nhưng anh vẫn sống. Không phải bằng thể lực, mà bằng tinh thần và bằng những bức thư.
Anh viết: “May còn chiếc đèn pin, thỉnh thoảng bấm lên ghi vội tình cảnh của mấy anh em… rồi lấy thư của Khơi ra đọc… Cũng chẳng dám đọc hết một lần, vừa tiết kiệm pin, vừa để dành mà đọc trong những ngày mình còn sống...”.
Khơi, tên người vợ thân yêu, chị Phan Thị Biển Khơi, người Quảng Bình. Tình yêu từ hậu phương, qua những dòng chữ nghiêng nghiêng, là thứ duy nhất giữ anh lại với sự sống. Trong bóng tối dày đặc ấy, ánh sáng duy nhất là những con chữ của người vợ hiền.
Rồi đến một dòng khác: “Hôm nay, chiến sĩ thứ tư bị vùi trong hầm đã lại hy sinh… Còn lại một mình. Chiếc đèn pin yếu dần, chắc do pin cạn… Đành cố đọc nốt phần còn lại trong thư của Khơi, rồi phải gói cất vào bọc, chờ đến lượt mình...”.
Anh sống thêm được 5 ngày, đếm bằng kim đồng hồ. Mỗi ngày một đoạn thư. Ngày thứ năm, 7/8/1972, ánh đèn cạn pin, vụt tắt. Anh viết vội dòng cuối, gói thư, nhật ký, giấy tờ, đặt lại vào xắc cốt, ôm sát ngực. Ngồi tựa vách hầm, anh trút hơi thở cuối cùng.
Một người lính đã hoàn thành nhiệm vụ. Lặng lẽ, trọn vẹn và không bỏ ai lại phía sau, kể cả chính mình. Giấy báo tử sau này ghi ngày hy sinh của anh là ngày 3/8/1972, tức là trước 4 ngày vì không ai biết rằng, trong lòng đất ấy, có một người lính đã sống thêm 5 ngày để viết nên một cuộc chia tay không lời...
Lá thư chưa gửi và lời nhắn tới người con chưa từng thấy mặt cha
Trong xắc cốt Đại úy Lê Binh Chủng còn có một bức thư chưa kịp gửi. Một bản di chúc thấm đẫm nước mắt dành cho người vợ thân yêu và đứa con chưa một lần được thấy mặt cha: “Em Biển Khơi... Anh ra đi, nếu có hy sinh tính mạng cho Tổ quốc, thì em cũng phải can đảm, bớt đau khổ, đừng khóc lóc buồn nản… Nếu anh có chết thì em nhớ nói cho con nghe về người cha của nó mà nó chưa bao giờ thấy mặt. Nếu không, bức thư này em sẽ giữ nó mãi mãi, cho tới khi con khôn lớn, em sẽ trao lại cho con...”.
Sau đó, bức thư được trao lại cho mẹ con chị Biển Khơi, bên cạnh xắc cốt của anh, giữa lòng Thành cổ Quảng Trị. Một cuộc hội ngộ muộn màng. Nhưng trọn vẹn trong từng hơi thở của ký ức.
Liệt sỹ Trần Kim Chiến (quê Thái Bình cũ) viết thư gửi giữa cuộc chiến bảo vệ thành cổ Quảng Trị 1972 như một dự báo về sự hy sinh của mình. (Ảnh: Nguyên Linh/TTXVN)
Những dòng thư ấy, những trang nhật ký ấy, mãi là linh hồn của người chiến sĩ sống mãi với thời gian. Tháng 11/1999, Quảng Trị hứng chịu trận lũ lịch sử. Nước tràn vào kho bảo quản bảo tàng, làm hư hại nhiều hiện vật. Những trang thư và nhật ký vốn đã nhòe vì thời gian, nay càng loang lổ hơn, chỉ còn lại vài trang cũng không còn nguyên vẹn.
Cựu chiến binh Lê Bá Dương xúc động kể lại: “Tôi may mắn là một trong những người đầu tiên được tiếp xúc, lật mở và chép lại vội vàng. Trong cuốn sổ tay ấy, cái chết không còn đáng sợ. Chỉ còn tình người, tình yêu và niềm tin sống đến tận cùng."
Giờ đây, trong gian trưng bày nhỏ của Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị vẫn còn lưu giữ chiếc đèn pin đã rỉ sét, chiếc xắc cốt bạc màu cùng những mảnh thư loang máu và nước mắt. Đó không chỉ là hiện vật mà dường như là linh hồn của một thế hệ, là cách một người lính chọn để sống đến phút tận cùng. Và rồi họ cũng chọn để chết một cách đẹp đẽ và lặng lẽ nhất.
Có những điều, dù đã nửa thế kỷ trôi qua vẫn khiến người ta đứng lặng rất lâu giữa Thành cổ. Đó là những bức thư và câu chuyện về những người đã sống trọn đến giây phút cuối cùng cho Tổ quốc!./.
Bài 2: Chứng tích sống động về lý tưởng và tình yêu nước vô bờ bến
(TTXVN/Vietnam+)