Bài học quốc tế và giải pháp đột phá cho giáo dục đại học Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết 71/TW

Bài học quốc tế và giải pháp đột phá cho giáo dục đại học Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết 71/TW
5 giờ trướcBài gốc
Sinh viên Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh minh họa
Nghị quyết 71/TW đột phá GD-ĐT và xu hướng quốc tế đều khẳng định: “Nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài khoa học, công nghệ trở thành động lực và lợi thế cạnh tranh cốt lõi của đất nước”. Để hiện thực hóa tầm nhìn ấy, Việt Nam cần coi giáo dục đại học là “quốc sách hàng đầu” không chỉ mang tính khẩu hiệu, mà bằng những cải cách thể chế thực chất và đầu tư đột phá.
Nghị quyết 71/TW và mục tiêu giáo dục đại học đến 2030
Nghị quyết 71/TW (NQ71) của Bộ Chính trị về đột phá GD-ĐT thể hiện quyết tâm rất cao của Đảng, nhấn mạnh giáo dục là “quốc sách hàng đầu” và chỉ đạo tạo cơ chế “đặc thù, vượt trội” cho phát triển giáo dục.
Giáo dục đại học là đầu tầu cho phát triển con người mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển hóa tri thức thành động lực tăng trưởng. Ảnh: Sinh viên Trường Đại học Ngoại Thương
Trong phần mục tiêu, NQ71 đặt ra loạt chỉ tiêu cụ thể đến 2030 cho giáo dục đại học (GDĐH): 100% cơ sở đại học đạt chuẩn quốc gia, trong đó 20% cơ sở đạt trình độ tiên tiến như các nước phát triển Châu Á; tỷ lệ người học sau trung học phổ thông đạt 50%, lao động có bằng cao đẳng, đại học 24%, 35% sinh viên thuộc ngành Khoa học – Kỹ thuật – Công nghệ. Mục tiêu nghiên cứu – đổi mới sáng tạo cũng rõ nét: tăng số công bố quốc tế và đăng ký sáng chế lần lượt 12% và 16% mỗi năm; ít nhất 8 đại học lọt top 200 châu Á, 1 trường vào top 100 thế giới trong một số lĩnh vực.
NQ71 định hướng hóa GDĐH thành trung tâm đổi mới sáng tạo, và khuyến khích tự chủ, chuyển từ quản lý hành chính sang quản trị hiện đại. Việc gắn giáo dục với chiến lược AI, công nghệ cao ngay ở bậc phổ thông, cũng như nhấn mạnh chuyển đổi số toàn diện (chiến lược dữ liệu quốc gia, trường học thông minh) cho thấy tư duy mở và đổi mới.
Các con số như 6.000 nghiên cứu sinh, 2.000 giảng viên nước ngoài, đẩy số đăng ký sáng chế hàng chục ngàn, thể hiện quyết tâm tăng cường nghiên cứu – đổi mới (thể hiện trong Mục tiêu 2030 của NQ). NQ71 cũng khẳng định vai trò trung tâm của đại học trong hệ sinh thái đổi mới toàn quốc, nhất quán với xu hướng thế giới cho đại học là hạt nhân KH-CN, đột phá kinh tế.
Sinh viên Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội trong một buổi học trực tuyến. Ảnh minh họa
Kinh nghiệm từ các mô hình đại học thành công châu Á
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và đổi mới sáng tạo, giảng dạy và nghiên cứu đại học được coi là động lực hàng đầu của tăng trưởng và phát triển quốc gia. Các dữ liệu xếp hạng và nghiên cứu quốc tế cho thấy xu hướng chuyển dịch “trục học thuật” từ phương Tây sang phương Đông, với nhiều đại học châu Á liên tục thăng hạng và gia tăng năng lực nghiên cứu. Times Higher Education ghi nhận “một trật tự thế giới mới” với “trung tâm trọng lực phương Đông” đang nổi lên mạnh mẽ. Cụ thể, theo World University Ranking 2026 Trung Quốc có 5 trường vào top 40 thế giới (so với 3 trường năm trước) và 35 trường trong top 500 (nhiều hơn cả Australia). Hồng Kông đạt kỷ lục 6 trường trong top 200 châu Á, trong khi Hàn Quốc có 4 trường lọt top 100 thế giới.
Những số liệu này phản ánh khuynh hướng: các nền kinh tế châu Á đầu tư lớn vào giáo dục – từ ngân sách công đến thu hút nhân tài – và đẩy mạnh nghiên cứu – đặc biệt trong STEM và công nghệ mới – nhằm xây dựng “vũ khí” tri thức cạnh tranh.
Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội - HCEM
Nhiều quốc gia châu Á đã triển khai chiến lược phát triển đại học gắn liền với hoạch định kinh tế – xã hội dài hạn. Trung Quốc là ví dụ nổi bật với các chương trình “100 trường Đại học hàng đầu” (dự án 211, 985, Chiến lược Đại học kép tiên tiến). Chính phủ Trung Quốc chi nhiều tỷ USD hỗ trợ hạ tầng, tài chính và ưu đãi học thuật cho một số đại học trọng điểm nhằm nhanh chóng gia tăng số bài báo khoa học và công bố quốc tế. Kết quả là năng lực nghiên cứu của Trung Quốc tăng đột phá: 5 trường trong top 40 thế giới và 18 cơ sở đạt vị trí cao nhất trong lịch sử.
Singapore xây dựng “đại học hạt nhân” (NUS, NTU) thành trung tâm nghiên cứu đẳng cấp thế giới, đồng thời trở thành điểm đến du học và hợp tác quốc tế. Quỹ chính phủ và các chương trình ưu đãi (học bổng toàn phần, cơ chế tự chủ toàn diện cho giảng viên đầu ngành) đã giúp NUS giữ vị trí thứ 8 toàn cầu trên bảng xếp hạng QS. Trường hợp NUS còn nổi bật ở sự gắn kết mạnh mẽ với đổi mới sáng tạo: nhà trường tạo dựng hệ sinh thái khởi nghiệp (NUS Enterprise, vườn ươm khởi nghiệp) và hợp tác quốc tế sâu rộng, cho phép sinh viên trẻ tiếp xúc sớm môi trường kinh doanh – công nghệ toàn cầu (với chương trình NOC ở thung lũng Silicon…).
Hàn Quốc cũng tập trung phát triển giáo dục đại học gắn liền công nghệ cao. Quốc gia này đạt 4 trường trong top 100 thế giới, liên tục tăng hạng trong các tiêu chí chất lượng nghiên cứu. SK (KISTI) đầu tư mạnh cho khoa học, công nghệ và thu hút nhân tài toàn cầu (giáo sư giỏi, nghiên cứu sinh tài năng). Mô hình liên kết đại học với các tập đoàn công nghệ (Samsung, LG, Hyundai…) giúp chuyển giao công nghệ và tạo việc làm cho sinh viên.
Nhật Bản với nền tảng giáo dục lâu đời cũng không ngừng đổi mới. Đại học Tokyo lên thứ 26 thế giới năm 2026. Nhật áp dụng các chương trình “đại học toàn cầu”, khuyến khích hợp tác với nước ngoài và tăng vốn đầu tư cho nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng, đồng thời nâng cao giảng viên chuyên ngành. Nhật bản còn là hình mẫu về hệ thống kiểm định chất lượng (AUN/QAA network) và chú trọng công tác đào tạo giảng viên.
Ấn Độ (nước dân số lớn, xu hướng dân số trẻ) đã cải tổ mạnh ngành đại học qua dự án khung về “Đại học tương lai” và cho phép nhiều trường tư nhân, nước ngoài đầu tư thành lập. Hàng chục viện công nghệ (IIT, IIIT) nổi tiếng của Ấn Độ đưa nước này lên bản đồ nghiên cứu toàn cầu. Ấn Độ nhấn mạnh giáo dục STEM – đến 35% học viên theo học các ngành khoa học – và tận dụng lợi thế nhân lực dồi dào để trở thành “công xưởng chất xám” thế giới. Mạng lưới R&D công – tư (Institutes of Eminence) và chiến lược quốc gia (Startup India) cũng góp phần tăng mạnh đăng ký sáng chế và đổi mới thương mại.
Sinh viên Trường Đại học Phenikaa
Theo đó, có 5 bài học kinh nghiệm then chốt từ các mô hình trên như sau:
Thứ nhất, Chính phủ đóng vai trò định hướng và đầu tư chiến lược lâu dài, với tiêu chí “đổi mới giáo dục bằng đổi mới kinh tế;
Thứ hai, Tập trung xây dựng một số đại học ưu tú thành trung tâm nghiên cứu – giáo dục mũi nhọn, thay vì duy trì hệ thống quá phân tán;
Thứ ba, Gắn kết chặt ngành đại học với thị trường lao động và công nghệ, khuyến khích hợp tác nghiên cứu và khởi nghiệp từ giảng đường;
Thứ tư, Ưu tiên đào tạo nhân lực công nghệ cao và thu hút toàn cầu giảng viên, nghiên cứu sinh giỏi (NQ 71 cũng đặt mục tiêu tuyển 2.000 giảng viên nước ngoài và hàng chục ngàn học viên tài năng);
Thứ năm, Tăng cường hội nhập quốc tế, cho phép hợp tác thành lập chương trình liên kết, đại học nhánh nước ngoài, đồng thời khuyến khích sinh viên du học và thu hút sinh viên quốc tế như các nước châu Á khác đang làm.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đại học cần được coi là “quốc sách hàng đầu”, được trao quyền tự chủ vận hành nhưng kèm theo trách nhiệm; được ưu đãi đầu tư nghiên cứu, hạ tầng và phát triển nhân lực chất lượng cao, trong một chiến lược quốc gia gắn liền đổi mới sáng tạo và hội nhập toàn cầu.
Giải pháp đột phá cho giáo dục đại học Việt Nam
Để đáp ứng tầm nhìn chiến lược đặt ra, hệ thống giáo dục đại học cần những nhóm giải pháp trọng tâm theo các lĩnh vực sau, dựa trên phân tích quốc tế và nhu cầu trong nước gồm:
Tài chính đại học: Đa dạng hóa nguồn vốn. Bên cạnh tăng trích ngân sách Nhà nước (lên 1,5–2% GDP dành cho GDĐH), cần khuyến khích hình thành quỹ tự chủ đại học (endowment funds) kèm chính sách tài trợ. Ví dụ, học bổng, nghiên cứu có thể được tài trợ từ doanh nghiệp và cựu sinh viên có uy tín. Hợp tác công-tư trong R&D và giáo dục (như chính sách Cộng Hòa Hàn Quốc cho phép doanh nghiệp trả lương giảng viên để thực hiện dự án chung) nên nhân rộng. Tài chính thực hiện tự chủ phải đi đôi với trách nhiệm công khai, minh bạch (xem thêm xu hướng “hiệu quả tài chính” trong tự chủ các nước).
Xếp hạng và chất lượng: Việt Nam nên xây dựng một hệ thống đánh giá chất lượng đại học phù hợp, song song với tham gia các bảng xếp hạng quốc tế. Giải pháp là củng cố tiêu chuẩn kiểm định nội địa (bám sát chuẩn ASEAN/ châu Á), kèm gắn kết với điểm thi Tốt nghiệp THPT và năng lực ngoại ngữ cho tuyển sinh.
Nhà nước cần thúc đẩy cơ chế đánh giá thường niên (như Chương trình kiểm định chất lượng quốc gia), và ưu đãi cho các cơ sở được xếp loại cao (thêm hỗ trợ, cho phép tự chủ mở ngành, tuyển sinh). Đây là xu hướng mà Singapore, Malaysia đều áp dụng: xếp hạng nội bộ đánh động chất lượng, từ đó mở rộng đầu tư cho trường tốt.
Nghiên cứu – Đổi mới sáng tạo: Cần tiếp tục đột phá cơ chế khuyến khích công bố quốc tế và sáng chế. Cụ thể, tăng chỉ tiêu kinh phí nghiên cứu hàng năm, gắn liền với chỉ tiêu KH-CN của Nghị quyết 71 (ví dụ +12% số công bố, +16% sáng chế/năm). Khuyến khích liên kết nghiên cứu công-tư, cung cấp hạ tầng chung (phòng lab, cụm công nghệ…) cho nhiều trường sử dụng chung. Học hỏi Singapore và Trung Quốc, Việt Nam có thể thành lập các trung tâm xuất sắc liên kết đại học-doanh nghiệp theo lĩnh vực ưu tiên quốc gia (AI, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo…), tạo ra kết quả khoa học ứng dụng.
Đặc biệt, chính sách “giảng viên đồng cơ hữu” nên được lan rộng: cho phép các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài hay trong nước đứng ngoài giảng dạy kiêm nhiệm tại trường đại học, tạo nguồn tri thức và mạng lưới nghiên cứu quốc tế. Phải triển khai quyết liệt Nghị định số 249/2025/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách thu hút và trọng dụng chuyên gia khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, văn bản được xem là khung pháp lý nền tảng cho việc thu hút nguồn nhân lực trình độ cao, trong đó có đội ngũ giảng viên, nhà khoa học quốc tế.
Nghị quyết 71 đã đặt nền tảng cho chuyển đổi số toàn diện trong giáo dục đại học. Ảnh minh họa
Chuyển đổi số: NQ71 đã đặt nền tảng cho chuyển đổi số toàn diện trong GDĐH. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng “trường học thông minh – lớp học thông minh” là cần thiết: đầu tư mạng lưới Internet tốc độ cao, hệ thống quản lý học tập LMS, thư viện điện tử dùng chung. Kết hợp AI trong giảng dạy, đánh giá kỹ năng và hỗ trợ cá nhân hóa việc học. Tham khảo các nước tiên tiến, Việt Nam có thể phát triển nền tảng học tập trực tuyến lớn (MOOCs) tích hợp với Chứng chỉ Kỹ năng số quốc gia. Xác lập chương trình đào tạo giảng viên về CNTT – AI, đồng thời rà soát, tích hợp nội dung số vào chương trình GDĐH (giảng dạy linh hoạt theo mô hình blended-learning). Xây dựng dữ liệu lớn (big data) giáo dục đại học để theo dõi tiến trình học tập, nhu cầu nhân lực, giúp nhà hoạch định chính sách điều chỉnh kịp thời.
Quốc tế hóa: Đẩy mạnh chương trình trao đổi du học, hợp tác nghiên cứu quốc tế, liên kết đào tạo. Có thể cấp thêm học bổng cho sinh viên và giảng viên ra nước ngoài tu nghiệp ở các trường hàng đầu châu Á và thế giới. Mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế (như thư viện mở, khóa học số toàn cầu). Cho phép thành lập các cơ sở đại học nước ngoài liên kết chặt với trường trong nước (khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài và đối tác quốc tế). Đồng thời, chuẩn hóa chương trình dạy bằng tiếng Anh ở đại học để thu hút sinh viên quốc tế, từ đó tăng cường tiếp nhận tri thức đa văn hóa. Tăng cường các diễn đàn, hội nghị quốc tế tại Việt Nam về GDĐH để nâng cao uy tín và mở rộng mạng lưới hợp tác học thuật.
Phát triển đội ngũ: Chú trọng phát triển giảng viên và cán bộ quản lý đại học. Đổi mới cơ chế tuyển dụng, thăng tiến dựa trên thực lực (số lượng và chất lượng công bố khoa học, sáng chế được ứng dụng) thay vì chỉ số về tỉ lệ học hàm, học vị. Xây dựng quy chế khuyến khích lương thực sự cạnh tranh, chính sách phụ cấp cho giảng viên xuất sắc (nhất là trong STEM), tạo điều kiện làm việc cho giảng viên giỏi cả trong nước và mời chuyên gia quốc tế. Bảo đảm đủ biên chế cho giảng viên chất lượng, cải thiện điều kiện làm việc (thiết bị thí nghiệm, phòng lab…).
Học hỏi Singapore/Hàn Quốc về việc luân chuyển giảng viên ra doanh nghiệp để nắm bắt công nghệ mới và ngược lại (chuyên gia doanh nghiệp tham gia giảng dạy). Tăng cường giáo dục thường xuyên, bồi dưỡng kỹ năng sư phạm hiện đại, đổi mới phương pháp.
Đặc biệt, đẩy mạnh chính sách ưu đãi (trợ cấp, nhà ở, thuế…) để thu hút nhân lực trình độ cao trong lĩnh vực khoa học – công nghệ trọng điểm vào thực tiễn giảng đường, giảm thiểu tình trạng “giảng viên treo bảng” do đời sống thấp.
Năng lực thể chế: Tiếp tục tinh gọn bộ máy quản lý giáo dục, phân định rõ vai trò. Làm theo hướng tăng cường phân cấp, tự chủ, đẩy mạnh giao quyền cho trường công lập (đã được nhấn mạnh trong NQ71).
Nhanh chóng sắp xếp lại hệ thống trường (ví dụ tập trung các trường chuyên ngành thành trường liên kết vùng, tránh trùng lắp, như một số nước đang hợp nhất đại học địa phương). NQ71 đề xuất Bí thư cấp ủy kiêm hiệu trưởng, bỏ HĐT tránh chồng chéo trong quản lý. Nhưng cần xây dựng cơ chế chịu trách nhiệm rõ ràng: trường tự chủ thì phải công khai báo cáo kết quả đào tạo, tài chính, hiệu quả sử dụng ngân sách; các mục tiêu NQ71 (ví dụ số tiến sĩ, bằng cấp quốc tế…) nên được giao chỉ tiêu cụ thể và báo cáo định kỳ.
Đào tạo chuyên viên quản trị giáo dục theo chuẩn quốc tế, ứng dụng mô hình “quản trị đại học hiện đại” – nơi lãnh đạo trường tự chịu trách nhiệm về chiến lược phát triển giống như doanh nghiệp – cũng là xu hướng cần nhân rộng.
Mỗi nhóm giải pháp trên đều cần có lộ trình rõ, đi kèm nguồn lực và chỉ tiêu đánh giá. Các biện pháp phải mang tính đột phá, không thể trì hoãn; bởi như The World Bank đã từng nhấn mạnh, để trở thành nền kinh tế tri thức, Việt Nam “phải tăng đáng kể cơ hội tiếp cận giáo dục đại học và nâng cao chất lượng giáo dục”.
Bài học kinh nghiệm từ châu Á cho thấy thành công của đại học gắn liền với chiến lược quốc gia, với đổi mới thể chế và cơ chế tài chính đủ mạnh. NQ71 cung cấp khung mục tiêu, nhưng cần bổ sung cơ chế thực thi: tăng ngân sách nghiên cứu, minh bạch phân bổ, thúc đẩy giám sát kết quả. Xây dựng đại học của tương lai ở Việt Nam đòi hỏi quan điểm lãnh đạo chủ động, tạo môi trường tự chủ có kiểm soát gắn trách nhiệm rõ ràng. Khi đó, hệ thống đại học mới thực sự “đi trước một bước” như yêu cầu của Đảng, và phát huy vai trò trung tâm, giúp đất nước bứt phá, hội nhập và phát triển bền vững.
PGS.TS Trần Thành Nam - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, ĐHQGHN
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân : https://daibieunhandan.vn/bai-hoc-quoc-te-va-giai-phap-dot-pha-cho-giao-duc-dai-hoc-viet-nam-theo-tinh-than-nghi-quyet-71-tw-10391252.html