Bàn giải pháp để Việt Nam tăng trưởng cao, bền vững

Bàn giải pháp để Việt Nam tăng trưởng cao, bền vững
5 giờ trướcBài gốc
Việt Nam phấn đấu đạt tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 đạt mức tăng trưởng hai con số trong những năm tiếp theo. Ảnh minh họa: S.T
Nhiều thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế - xã hội
Chia sẻ tại Hội thảo công bố Báo cáo Kinh tế Việt Nam 2025, bà Trần Bảo Ngọc - Vụ trưởng Vụ Ngoại giao kinh tế, Bộ Ngoại giao - cho biết, nhìn lại hành trình phát triển đất nước, Việt Nam có quyền tự hào với những thành tựu vượt bậc về phát triển kinh tế - xã hội trong 80 năm qua, đặc biệt là kể từ khi thực hiện công cuộc Đổi mới vào năm 1986. Theo đó, từ một nền kinh tế chủ yếu nông nghiệp, tài nguyên hạn chế, thu nhập bình quân đầu người rất thấp, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Sau gần 40 năm đổi mới, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã tăng gần 100 lần, GDP bình quân đầu người tăng từ dưới 100 USD lên gần 5.000 USD, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao.
Cùng với đó, Việt Nam đã chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu với việc ký kết 17 hiệp định thương mại tự do với hơn 60 nền kinh tế lớn. Nhờ đó, Việt Nam hiện nằm trong nhóm 20 quốc gia thương mại hàng đầu thế giới, là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và liên tục đứng trong top 10 quốc gia có lượng kiều hối lớn nhất toàn cầu. Những kết quả này thể hiện tinh thần đổi mới, ý chí vươn lên và khối đại đoàn kết của nhân dân Việt Nam.
Cũng theo bà Ngọc, hiện nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động sâu sắc về địa chính trị, địa kinh tế, xã hội và công nghệ, Việt Nam đồng thời đứng trước cả những cơ hội lớn và thách thức chưa từng có. Đó là những bất ổn địa chính trị, căng thẳng thương mại, thay đổi trong chuỗi cung ứng toàn cầu và quá trình chuyển đổi số đang định hình lại cục diện kinh tế thế giới.
“Là một nền kinh tế mở, Việt Nam cần chủ động, linh hoạt trong chiến lược ứng phó để thích nghi hiệu quả. Năm 2025, Việt Nam đặt mục tiêu đạt tăng trưởng kinh tế trên 8% và phấn đấu đạt mức tăng trưởng hai con số trong những năm tiếp theo. Để thực hiện mục tiêu này, Việt Nam sẽ tiếp tục tận dụng các động lực tăng trưởng truyền thống như xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng trong nước; đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, nâng cao năng suất và đổi mới sáng tạo” - bà Ngọc nhấn mạnh.
Trong bối cảnh đó, lãnh đạo Bộ Ngoại giao cho rằng, Báo cáo Kinh tế Việt Nam 2025 là nguồn thông tin đánh giá khách quan, có giá trị tham khảo cho các nhà hoạch định chiến lược, chính sách và các nhà nghiên cứu, quản lý ở cả khu vực công và tư nhân, cũng như các đối tác phát triển của Việt Nam. Báo cáo là tài liệu nghiên cứu hữu ích trong việc tổng kết, đánh giá thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và tiếp tục triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030.
“Báo cáo còn mang ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang tiến gần tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV và chuẩn bị cho Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026-2030. Với các phân tích toàn diện dựa trên bằng chứng thực tiễn và đánh giá quốc tế nghiêm ngặt, Báo cáo đưa ra nhiều khuyến nghị xác đáng, có giá trị tham khảo cao cho quá trình xây dựng chính sách phát triển hiệu quả, bền vững và bao trùm - bà Ngọc nhấn mạnh.
Cũng đánh giá cao thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, Tổng Thư ký Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) Mathias Cormann - nhấn mạnh, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong nhiều thập kỷ qua, với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, mức sống của người dân được cải thiện rõ rệt cùng công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt nhiều kết quả quan trọng.
“Những thành tựu phát triển của Việt Nam thực sự ấn tượng. GDP thực tế bình quân đầu người năm 2023 cao gấp 5,7 lần so năm 1990. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam kể từ cuối những năm 1980 là chìa khóa cho thành công này. OECD ủng hộ và cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam để đạt các mục tiêu tăng trưởng cao trong thời gian tới” - ông Mathias Cormann nói.
Trình bày những điểm chính của Báo cáo, ông Alvaro Pereira - Chuyên gia Kinh tế trưởng OECD – cho biết, nghiên cứu của OECD chỉ rõ từ nền kinh tế nông nghiệp kế hoạch hóa tập trung, Việt Nam đã vươn lên thành quốc gia xuất khẩu lớn và là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn FDI. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bền bỉ giúp thu nhập bình quân đầu người tăng 5,5 lần trong giai đoạn 1990-2023, đưa Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp từ năm 2011.
Bên cạnh những thành tựu, theo OECD, Việt Nam cũng cần phải vượt qua nhiều thách thức nếu muốn đạt mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, chẳng hạn như: tăng năng suất chậm, nền kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào vào năng lượng hóa thạch như than, thị trường lao động còn tới gần 70% lao động phi chính thức, cải cách thể chế chưa thực sự bắt kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế... Cùng với đó, về môi trường bên ngoài, bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, gia tăng xung đột thương mại giữa các nền kinh tế, áp lực lạm phát và biến đổi khí hậu cũng đang đặt ra nhiều rào cản cho mục tiêu tăng trưởng bền vững của Việt Nam.
“Năm 2025, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được dự báo sẽ phải đối mặt với khá nhiều trở ngại, thậm chí có thể kéo dài sang năm 2026, khi xuất khẩu sẽ suy yếu trong bối cảnh rào cản thương mại gia tăng, mặc dù nhu cầu trong nước vẫn tương đối vững chắc. Lạm phát hiện đã giảm xuống dưới 3% nhưng chính sách tiền tệ vẫn nên cảnh giác với rủi ro lạm phát do tăng trưởng tín dụng cao” – ông Alvaro Pereira nói.
Hội thảo công bố Báo cáo Kinh tế Việt Nam 2025 do Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Tài chính và OECD tổ chức chiều 20/6, tại Hà Nội. Ảnh: D.T
4 ưu tiên chiến lược giúp Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng bền vững
Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 và hướng đến mức tăng trưởng hai con số trong các năm tiếp theo. Để hiện thực hóa mục tiêu này cũng như khắc phục những hạn chế, thách thức đang đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam, nghiên cứu của OECD đã đưa ra nhiều khuyến nghị cụ thể, tập trung vào bốn lĩnh vực trọng yếu.
Thứ nhất, Việt Nam cần tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực. Điều này bao gồm việc nâng cao tính minh bạch trong điều hành kinh tế, cải thiện hiệu quả phân bổ nguồn lực thông qua hệ thống tài chính minh bạch, chuyển đổi chính sách tiền tệ sang định hướng dựa trên thị trường.
Cùng với đó, để đối mặt với rủi ro tài chính như nợ xấu tăng cao trong bối cảnh thị trường bất động sản và hệ thống ngân hàng còn nhiều khó khăn, Việt Nam cần khẩn trương nâng cấp khung pháp lý về xử lý nợ và phá sản, đồng thời giảm dần sự can thiệp hành chính vào tín dụng và lãi suất để tăng tính cạnh tranh và minh bạch của thị trường vốn.
Thứ hai là cải thiện hệ thống an sinh xã hội, bao gồm giáo dục, y tế và thúc đẩy chính thức hóa khu vực lao động phi chính thức. Dù đã có tiến bộ trong giảm nghèo và cải thiện y tế, giáo dục, nhưng Việt Nam vẫn đối mặt với những “điểm nghẽn” nghiêm trọng như chỉ 58% học sinh hoàn thành trung học, tỷ lệ tốt nghiệp đại học còn chưa cao và phần lớn người lao động không được hưởng an sinh xã hội. Do đó, Việt Nam cần tăng chi ngân sách cho giáo dục đại học và đào tạo nghề, cải cách hệ thống lương hưu và bảo hiểm để bao phủ toàn dân, đồng thời giảm gánh nặng thuế cho người lao động thu nhập thấp.
Thứ ba là thúc đẩy phát triển bền vững thông qua cơ chế thị trường như giao dịch phát thải và đầu tư vào năng lượng tái tạo. Việt Nam đã cam kết đạt trung hòa carbon vào năm 2050. Tuy nhiên, tiêu thụ than vẫn ở mức cao do nhu cầu điện tăng vọt. Do đó, Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư vào năng lượng tái tạo, hoàn thiện hệ thống định giá carbon và triển khai hệ thống giao dịch phát thải để đạt được các mục tiêu khí hậu.
Song song đó, chuyển đổi số được xác định là động lực mới để thúc đẩy năng suất. Vì vậy, việc tích hợp công nghệ vào quản trị nhà nước, lập pháp và cung cấp dịch vụ công sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa lớn, thúc đẩy sáng tạo và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ tư, Việt Nam cần tập trung thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao, đồng thời nâng cao năng lực nội tại để gia tăng giá trị. Mặc dù dòng vốn FDI luôn là một động lực tăng trưởng mạnh mẽ, song Việt Nam cần chuyển từ “thu hút số lượng” sang “chọn lọc chất lượng”. Muốn vậy, cần tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và các tập đoàn nước ngoài, cải thiện bảo hộ sở hữu trí tuệ và tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh hơn.
Với các khuyến nghị của OECD, bà Trần Bảo Ngọc cho biết những khuyến nghị trên rất phù hợp với những định hướng chiến lược của Việt Nam. Cụ thể, Chính phủ Việt Nam kiên định thực hiện bốn định hướng cốt lõi, bao gồm: xác định khu vực tư nhân là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng; cải cách khung pháp lý nhằm nâng cao minh bạch, hiệu lực pháp luật, tích hợp công nghệ cao vào quá trình lập pháp và hoàn thiện bộ máy tổ chức; đặt khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số vào trung tâm của tiến trình hiện đại hóa đất nước; tăng cường hội nhập chủ động với tinh thần tự cường, thích ứng linh hoạt, đồng thời nâng cao vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu.
“Với sự đồng hành về chuyên môn và kinh nghiệm quý báu từ OECD, cùng với quyết tâm cao của Chính phủ và nhân dân Việt Nam, Việt Nam sẽ linh hoạt vận dụng các khuyến nghị trong Báo cáo phù hợp với thực tiễn, làm cơ sở tham khảo quý giá trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, hướng tới thịnh vượng, bền vững” - đại diện Bộ Ngoại giao nhấn mạnh./.
TUẤN MINH
Nguồn Kiểm Toán : http://baokiemtoan.vn/ban-giai-phap-de-viet-nam-tang-truong-cao-ben-vung-41148.html