“Bước vào” luật pháp
Theo ông Nguyễn Văn Phúc, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế của Quốc hội (nay là Ủy ban Kinh tế và Tài chính), Đại hội VI quyết định đường lối đổi mới, từ nền kinh tế kế hoạch mệnh lệnh, tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Ngay sau đó, việc xây dựng các luật về kinh tế theo tinh thần đường lối đổi mới được các cơ quan bắt tay vào thực hiện. Năm 1987, Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, tạo ra nền tảng pháp lý cho việc thu hút vốn nước ngoài, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước.
Tổng Bí thư Tô Lâm tham quan các gian hàng trưng bày sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân. Ảnh: Nhật Bắc
Tuy nhiên, với khu vực kinh tế tư nhân, đến trước năm 1990 vẫn chưa phát triển do không có luật điều chỉnh. Vì vậy, yêu cầu mà Đảng đề ra phải xây dựng luật về khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân. “Năm 1990 Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội ban hành đã đặt dấu ấn đầu tiên, thừa nhận sự tồn tại về mặt pháp lý của khu vực kinh tế tư nhân trong nước”, ông Phúc nói.
Luật Doanh nghiệp tư nhân khi đó quy định: Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp tư nhân với các doanh nghiệp khác và tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh doanh. Trong khuôn khổ pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh. “Với tư duy kinh tế và tư duy pháp lý đổi mới, Quốc hội đã ban hành các luật kinh tế đầu tiên của nước ta, mở ra thời kỳ quản lý nền kinh tế bằng luật thay vì quản lý chủ yếu bằng chỉ thị, mệnh lệnh”, ông Phúc cho biết.
Nhiều doanh nghiệp tư nhân lớn Việt Nam đề xuất tham gia làm đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Ảnh: AI
Với sự ra đời của hai luật trên, khu vực kinh tế tư nhân, từ vị trí bên lề, đã được nhìn nhận như một bộ phận cấu thành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Tới năm 1996 tổng cộng đã có khoảng 21.000 doanh nghiệp tư nhân, 9.000 công ty trách nhiệm hữu hạn, 210 công ty cổ phần được thành lập, một con số rất ấn tượng. Trong khi đó, số hộ kinh doanh gia đình cũng tăng từ 840.000 hộ năm 1990 lên 2,2 triệu hộ vào đầu năm 1996…
Doanh nghiệp tư nhân giờ đây không chỉ hiện diện ở các lĩnh vực kinh tế thông thường mà còn chủ động bước vào những ngành đòi hỏi công nghệ cao, vốn lớn như xây dựng sân bay, cảng biển, thậm chí còn đang đề xuất đầu tư làm đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam hay hệ thống metro.
Cởi trói thủ tục, khơi dòng khởi nghiệp
Dù vậy, trong giai đoạn đầu những năm sau đổi mới, kinh tế tư nhân vẫn được cho là mang tính bổ sung, phục vụ những phần việc mà khu vực nhà nước chưa thể bao phủ hết, và chưa được xem là một động lực phát triển dài hạn. Là một trong những người tham gia xây dựng dự thảo Luật Doanh nghiệp năm 1999, TS. Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương kể: Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân có nhiều hạn chế, khiến khu vực kinh tế này phát triển chưa như kỳ vọng. Theo Luật Công ty, muốn thành lập doanh nghiệp tư nhân kinh doanh thì phải được chủ tịch tỉnh ký cho phép và để "an toàn", chủ tịch tỉnh yêu cầu chủ tịch quận, chủ tịch phường, rồi cả tổ dân phố, đoàn thanh niên… phải ký vào hồ sơ xin lập doanh nghiệp...
Thành thử, để xin được giấy phép thành lập doanh nghiệp, phải xin tới 35 chữ ký và 32 con dấu, nhiều thời gian chờ đợi. Kết quả, trong 9 năm, chỉ có 43.000 doanh nghiệp tư nhân được cấp phép thành lập. Con số này là một tiến bộ vượt bậc so với trước đó, song lại quá khiêm tốn đối với yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước lúc bấy giờ, ông Doanh chia sẻ.
Khi nghiên cứu sửa luật, đối chiếu với quy định “công dân được tự do kinh doanh theo pháp luật, trừ những ngành nghề cấm”, Ban soạn thảo dự án Luật Doanh nghiệp đề xuất: công dân có quyền đăng ký kinh doanh, chỉ cần hoàn thiện hồ sơ, không cần chủ tịch tỉnh ký. Tuy nhiên, theo TS Lê Đăng Doanh, đề xuất này khi đưa ra thảo luận tại Quốc hội vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Một số lãnh đạo địa phương vẫn muốn giữ quyền phê duyệt. Có chủ tịch tỉnh còn nói: “Tôi ở trong tỉnh nên biết ai tốt, ai xấu; ai tốt thì cho làm, ai xấu thì không”…
Sau nhiều tranh luận, Quốc hội đồng ý bỏ quy định chủ tịch tỉnh ký cho phép thành lập, doanh nghiệp được quyền đăng ký theo luật, chỉ cần đáp ứng đủ thông tin và hồ sơ. “Sau khi Luật ra đời, người dân rất phấn khởi, đăng ký kinh doanh nhiều, tạo nên một làn sóng khởi nghiệp mạnh mẽ”, theo TS Lê Đăng Doanh. Dù vậy, quá trình thực thi Luật Doanh nghiệp 1999 cũng không dễ dàng. Để thúc đẩy việc thực hiện luật, Thủ tướng Phan Văn Khải đã thành lập Tổ công tác của Thủ tướng, làm việc với từng bộ, ngành để bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không phù hợp.
“Khi đi tìm hiểu thực tế, Tổ công tác thấy có khoảng 500 điều kiện kinh doanh bất hợp lý. Ví dụ, tư nhân muốn đóng tàu trên 2.000 tấn phải có số lượng kỹ sư, công nhân nhất định. Doanh nghiệp ở Nam Định nói, chỉ cần trả lương cao hơn là kỹ sư từ xí nghiệp quốc doanh sẵn sàng sang làm việc, nên yêu cầu này là vô lý”, ông Doanh kể. Từ kiến nghị của Tổ công tác, Thủ tướng Phan Văn Khải sau đó đồng ý xóa bỏ hàng loạt các loại giấy phép con, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động.
Kết quả, từ năm 2000 trở đi, mỗi năm có từ 20.000 doanh nghiệp, rồi tăng thành 25.000 - 30.000 doanh nghiệp ra đời và dần lên đến khoảng 100.000 doanh nghiệp. Đặc biệt, từ giai đoạn 2016 trở đi, số lượng doanh nghiệp thành lập mới liên tục tăng cao, có năm lên đến 131.100 doanh nghiệp đăng ký thành lập. Qua hoạt động, bước đầu đã dần hình thành ra các tập đoàn lớn, làm thay đổi diện mạo kinh tế đất nước trong một số lĩnh vực như: hàng không, công nghệ thông tin, xây dựng… cũng như hình thành ra các tập đoàn kinh tế tư nhân “tỷ đô” như: Vietjet Air, VinGroup, Trường Hải, Hòa Phát…
Tiến vào “cao tốc”
Với gần một triệu doanh nghiệp, khoảng 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, khu vực kinh tế tư nhân giờ đây đã lớn mạnh, đóng góp khoảng 51% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước, tạo ra hơn 40 triệu việc làm, chiếm hơn 82% tổng số lao động trong nền kinh tế, đóng góp gần 60% vốn đầu tư toàn xã hội. Từ bên lề, Văn kiện Đại hội XII của Đảng lần đầu tiên khẳng định: Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Tuy vậy, sau gần 40 năm đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân vẫn đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Hầu hết doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa; tiềm lực tài chính và trình độ quản trị hạn chế; phần lớn có năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp; năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao; tư duy kinh doanh thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kết nối với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Với quyết tâm mở “cao tốc” cho kinh tế tư nhân bứt phá, tháng 5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68 về phát triển kinh tế tư nhân. Trong đó, lần đầu tiên kinh tế tư nhân được xác định là “một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế”, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững. Mục tiêu đề ra, đến năm 2030, phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu…
Theo các chuyên gia, ngay khi được ban hành, Nghị quyết 68 đã “thổi bùng” khát vọng kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân. Doanh nghiệp tư nhân giờ đây không chỉ hiện diện ở các lĩnh vực kinh tế thông thường mà còn chủ động bước vào những ngành đòi hỏi công nghệ cao, vốn lớn như xây dựng sân bay, cảng biển, và đang đề xuất đầu tư làm đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam hay hệ thống metro. Từ vị thế “bổ sung”, khu vực này đang trở thành “động lực quan trọng” đưa kinh tế Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên mới.
Văn Kiên