Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam Nguyễn Phương Nga gắn Kỷ niệm chương “Vì hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc” tặng Đại sứ Cộng hòa Venezuela tại Việt Nam Jorge Rondon Uzcategui, tháng 11/2019. (Nguồn: TTXVN)
"Kim chỉ nam" đúng nghĩa
Có thể khẳng định, những bước đi đầu tiên của Việt Nam trên trường quốc tế đã khởi nguồn từ trước Tuyên ngôn Độc lập 1945, khi chàng thanh niên hoài bão Nguyễn Tất Thành - Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt chân lên con tàu Latouche Tréville rời Bến Nhà Rồng ngày 5/6/1911, hướng tới nước Pháp.
Trong suốt hành trình 30 năm bôn ba, đến năm 1941, Người đã tích lũy được vốn hiểu biết sâu rộng về chính trị, văn hóa; thấu hiểu “ruột gan của con quái vật thực dân”, như lời José Martí - nhà tư tưởng, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà cách mạng kiên cường của Cuba và Mỹ Latinh; học hỏi về những hình thức đấu tranh của các dân tộc bị áp bức; xây dựng các mối liên kết trong phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới; tuyên bố với thế giới về quyền độc lập bất khả xâm phạm và con đường phát triển có chủ quyền, dân chủ của Việt Nam; đồng thời đặt nền móng cho một lực lượng cách mạng chung, vì sự tự do của toàn bán đảo Đông Dương.
Đại sứ Jorge Rondon Uzcategui từng là Trưởng Đoàn Ngoại giao tại Việt Nam trong nhiều năm.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản kim chỉ nam đúng nghĩa cho nhân dân Việt Nam, được viết từ tháng 5/1965 đến tháng 5/1969, thể hiện khát vọng của Người về độc lập, tự do và thống nhất đất nước; đưa ra những chỉ dẫn về xây dựng một chính quyền trong sạch, bền vững, đoàn kết; giữ vững quốc phòng, an ninh; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, trách nhiệm và đoàn kết quốc tế.
Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối ngoại là công cụ thiết yếu của phát triển đất nước và là đòn bẩy để tăng cường đoàn kết chính trị giữa các dân tộc.
Thực hiện đường lối đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam đã xây dựng mạng lưới hữu nghị, đoàn kết rộng khắp, trước hết với các nước xã hội chủ nghĩa, sau đó mở rộng tới các quốc gia tiến bộ và phong trào cánh tả, góp phần quan trọng vào thắng lợi năm 1975 và sự nghiệp thống nhất đất nước.
Kết thúc công cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam hầu như bị cô lập trên trường quốc tế và phải chịu hàng loạt biện pháp cấm vận kinh tế, chính trị. Tuy nhiên, giống như cây tre Việt Nam, đất nước vẫn kiên định về nguyên tắc và linh hoạt trong sách lược. Để làm được điều đó, Việt Nam duy trì nguyên tắc “4 không”: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho phép nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác và không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Khéo léo, quyết tâm và kiên nhẫn
Bằng bản lĩnh, sự khéo léo, quyết tâm và tinh thần kiên nhẫn, Việt Nam đã vươn lên nắm giữ vị thế nổi bật trong cộng đồng quốc tế, nhờ đường lối ngoại giao mềm dẻo, chủ động và đoàn kết. Chính sách đối ngoại của Việt Nam kiên định với mục tiêu hòa bình, ổn định và hợp tác trên trường quốc tế; thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, là thành viên của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác, trong đó có ASEAN, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)…
Đáng chú ý, Việt Nam đã hai lần đảm nhiệm thành công cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021) với nhiều dấu ấn. Từ năm 2014, Việt Nam trở thành nước tham gia tích cực, có trách nhiệm trong các hoạt động gìn giữ hòa bình và an ninh tại Sudan và Cộng hòa Trung Phi, nổi bật với những đóng góp nhân đạo trong xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ y tế và đào tạo nông nghiệp.
Tháng 6/2025, Việt Nam trở thành quốc gia đối tác của BRICS, Việt Nam cho rằng quyết định này phù hợp với chính sách hội nhập quốc tế chủ động, toàn diện, sâu rộng và hiệu quả. Việt Nam sẽ tiếp tục có những đóng góp thực chất cho các cơ chế đa phương, qua đó tích cực đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Cùng với thành tựu về chính trị, hoạt động đối ngoại của Việt Nam còn gặt hái nhiều thành công trong lĩnh vực kinh tế. Các đại sứ quán và lãnh sự quán trở thành lực lượng nòng cốt trong quảng bá sản phẩm Việt Nam, thu hút đầu tư, thúc đẩy du lịch, giới thiệu văn hóa dân tộc, mở rộng hợp tác công nghệ, cũng như tạo thuận lợi về điều kiện chiến lược và pháp lý để hệ thống hóa quan hệ thương mại song phương cũng như đa phương.
Tình hình quốc tế mới đặt ra thách thức to lớn đối với mọi quốc gia, đặc biệt là ở Đông Nam Á. Việt Nam phải sẵn sàng ứng phó với các vấn đề quốc tế nghiêm trọng như căng thẳng giữa các cường quốc, sức ép kinh tế – thương mại, thậm chí nguy cơ xung đột khu vực. Việt Nam cần phải ứng phó với những thách thức một cách rõ ràng và kiên quyết, theo đúng “kim chỉ nam” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng nước Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, nhân dân được ấm no và hạnh phúc.
Chúng ta tin tưởng rằng trong những năm tới, với kinh nghiệm phong phú và sức mạnh của mình, Việt Nam sẽ tiếp tục triển khai hoạt động ngoại giao chủ động, nhất quán với các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, để vượt qua mọi thử thách, dù khó khăn đến đâu.
Ông Jorge Rondón Uzcátegui giữ cương vị Đại sứ Venezuela tại Việt Nam giai đoạn 2006–2019, có nhiều đóng góp cho quan hệ song phương, đặc biệt qua các chuyến thăm cấp cao quan trọng.
Là đảng viên lão thành của Đảng Cộng sản Venezuela, Đại sứ Jorge Rondón Uzcátegui từng chia sẻ, tình yêu với Việt Nam bắt đầu từ năm ông 14 tuổi, khi được gia nhập Đảng Cộng sản Venezuela. Từ đó, ông mơ ước tìm hiểu về Chủ tịch Hồ Chí Minh và được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Năm 2006, khi được chỉ định là Đại sứ Cộng hòa Venezuela đầu tiên đến Việt Nam, ông biết rằng giấc mơ đó trở thành hiện thực.
Jorge Rondon Uzcategui