Bản sắc văn hóa người Mông ở Nghệ An trên rẻo cao biên giới Việt - Lào

Bản sắc văn hóa người Mông ở Nghệ An trên rẻo cao biên giới Việt - Lào
8 giờ trướcBài gốc
Các trò chơi dân gian của người Mông. Ảnh: kyson.nghean.gov.vn
Nơi những nếp nhà tựa lưng vào núi
Đồng bào Mông ở Nghệ An có trên 6926 hộ/33.716 khẩu, cư trú ở 91 bản, thuộc 28 xã, thị trấn của 3 huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong; trong đó có 5 xã thuần người Mông. Địa bàn cư trú rải rác nằm trên các sườn núi cao dọc theo vùng biên giới Việt - Lào. Người Mông cư trú tại 3 huyện rẻo cao dọc biên giới Việt - Lào là: Kỳ Sơn, Tương Dương và Quế Phong. Kỳ Sơn có 5 xã thuần Mông là Mường Lống, Huổi Tụ, Nậm Cắn, Tây Sơn, Đoọc Mạy và 3 xã Người Môngchiếm đa số là Bắc Lý, Na Ngoi, Mường Típ. Tương Dương có 6 xã có người Mông là Nhôn Mai, Tam Hợp, Mai Sơn, Lưu Kiền, Xá Lượng và Hữu Khuông. Quế Phong chỉ có ở xã Tri Lễ và Nậm Giải.
Đặt chân đến các huyện miền núi phía Tây Nghệ An như Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, ta dễ dàng nhận ra những bản làng người Mông ẩn mình giữa mây ngàn. Những ngôi nhà trình tường vững chãi, mái lợp gỗ pơ mu bạc màu theo năm tháng, tựa lưng vào núi, hướng mặt ra những thung lũng xanh mướt. Cách bố trí không gian sống, từ gian bếp ấm áp đến nơi thờ cúng tổ tiên trang trọng, đều phản ánh sự gắn kết mật thiết với thiên nhiên và lòng biết ơn đối với những người đi trước.
Âm thanh của khèn và sắc màu thổ cẩm
Bản sắc văn hóa Mông ở Nghệ An còn được thể hiện một cách sinh động qua những âm thanh và sắc màu. Tiếng khèn Mông trầm bổng, da diết, không chỉ là nhạc cụ mà còn là phương tiện giao tiếp, là tiếng lòng của cộng đồng trong những dịp lễ hội, cưới hỏi hay đơn giản là lúc nghỉ ngơi sau một ngày lao động vất vả. Những điệu múa uyển chuyển, nhịp nhàng theo tiếng khèn càng làm tăng thêm sự cuốn hút cho những buổi sinh hoạt cộng đồng.
Không thể không nhắc đến những bộ trang phục truyền thống rực rỡ, được tạo nên bởi đôi bàn tay khéo léo của những người phụ nữ Mông. Từ việc trồng lanh, dệt vải, nhuộm màu bằng các loại cây rừng đến thêu thùa, trang trí những họa tiết tinh xảo, tất cả đều là một quá trình tỉ mỉ, công phu, chứa đựng những giá trị thẩm mỹ và biểu tượng văn hóa sâu sắc. Mỗi đường kim mũi chỉ, mỗi gam màu đều kể một câu chuyện về lịch sử, về niềm tin và khát vọng của cộng đồng.
Nét văn hóa tiêu biểu của người Mông diễn ra trong các ngày tết như Tết Năm mới, Tết Đoan ngọ (mồng 5 tháng 5 âm lịch), lễ mừng cơm mới,... Trong các ngày lễ, đồng bào dân tộc Mông tổ chức các hoạt động văn hóa với các trò chơi dân gian như: Ném còn, bắn tên, đẩy gậy, kéo co, chơi khèn (vừa thổi vừa múa). Các loại kèn lá, kèn môi thường xuyên được sử dụng trong các đợt sinh hoạt tập thể. Văn hóa người Mông còn được thể hiện qua trang phục của người phụ nữ rất cầu kỳ với nhiều màu sắc và nhiều loại trang sức đẹp.
Cộng đồng người Mông và văn hóa tâm linh
Đơn vị cư trú sơ khai của người Mông là "giào", một tổ chức tương tự như bản của người Thái hay thôn, xóm của người Kinh, song quy mô hộ gia đình thường nhỏ gọn hơn, dao động từ 15 đến 20 hộ, gắn kết bởi huyết thống dòng họ. Mỗi giào tự quản bằng luật tục riêng và nổi bật tinh thần tương thân tương ái. Người đứng đầu giào là ông "Lùng thầu", một nhân vật uy tín được dân bầu chọn. Khi cần thiết, hai ba giào có thể liên kết thành "liên giào", dưới sự lãnh đạo của "Nại bản". Đến cấp cao hơn, khoảng 10 đến 15 giào hợp thành "phống", do "Tà Xẻng" đứng đầu, chức danh này về sau được gọi là Lý trưởng. Những người có vị thế trong xã hội Mông thường thuộc các dòng họ lớn, sở hữu uy quyền đáng kể và không ít người kiêm nhiệm vai trò thầy cúng. Dẫu vậy, họ vẫn duy trì lối sống lao động trực tiếp và mối quan hệ gần gũi với cộng đồng.
Trong văn hóa Mông, quan hệ dòng họ có một vị trí thiêng liêng. Dù cách xa về địa lý hay chưa từng quen biết, những người cùng dòng tộc vẫn chia sẻ những quy ước chung về giao tiếp, thờ cúng, tang ma,... Mỗi dòng họ mang tên một loài vật, đi kèm những điều kiêng kỵ mang đậm dấu ấn tô tem, tương tự như tín ngưỡng của người Thái, người Khơ Mú: họ Vừ, họ Và tránh ăn tim lợn; họ Lỳ kiêng ăn lá lách của động vật bốn chân,... Gia đình Mông truyền thống là gia đình phụ quyền bền vững, hiếm khi xảy ra tình trạng ngoại tình hay ly hôn. Cộng đồng có những hình thức xử lý nghiêm khắc đối với những gia đình bất hòa. Khi người chồng qua đời, tục lệ "nối dây" quy định chị dâu phải kết hôn với em trai chồng. Con trai trong gia đình được giáo dục về lao động và lễ nghi từ thuở ấu thơ: mười tuổi đã quen thuộc với việc bắn nỏ và làm nương rẫy, mười lăm tuổi đã thông thạo các bài cúng tổ tiên và thành thạo nghề thủ công truyền thống. Sau nghi lễ "thành đinh", các chàng trai được đổi tên và có thể tiến hành tục "cướp vợ" theo phong tục của dân tộc. Dấu vết của chế độ mẫu hệ vẫn còn khá rõ nét trong xã hội Mông, thể hiện qua vai trò quan trọng của người cậu trong việc dựng vợ gả chồng cho cháu gái, tương tự như người cha thứ hai. Theo quan niệm của người Mông, thế giới tồn tại vô vàn loại ma như ma trâu, ma lợn, ma nhà, ma cửa,... và đồng bào tin rằng mọi vật đều có linh hồn.
Giữ lửa văn hóa nơi biên cương
Sống trên những vùng đất biên giới, người Mông ở Nghệ An không chỉ đối diện với những khó khăn về kinh tế, xã hội mà còn phải nỗ lực để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trước sự giao thoa và tác động của cuộc sống hiện đại. Các phong tục tập quán, lễ hội truyền thống như Tết Nguyên đán, lễ hội xuống đồng, lễ cúng bản… vẫn được duy trì và trao truyền qua các thế hệ.
Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực đáng ghi nhận, việc bảo tồn bản sắc văn hóa Mông ở Nghệ An vẫn còn nhiều thách thức. Sự mai một của tiếng nói, trang phục truyền thống trong giới trẻ, sự xâm nhập của các yếu tố văn hóa ngoại lai… đòi hỏi sự quan tâm hơn nữa từ các cấp chính quyền, các tổ chức văn hóa và đặc biệt là ý thức tự tôn văn hóa của chính cộng đồng người Mông.
Hướng tới tương lai, giữ gìn cội nguồn
Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Mông ở Nghệ An trên các rẻo cao biên giới Việt - Lào không chỉ là trách nhiệm của riêng cộng đồng mà còn là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Cần có những chính sách, chương trình cụ thể để hỗ trợ việc dạy và học tiếng Mông, khôi phục và phát triển các nghề thủ công truyền thống, bảo tồn các lễ hội văn hóa đặc sắc và thúc đẩy du lịch cộng đồng gắn với văn hóa Mông.
Bản sắc văn hóa của người Mông ở Nghệ An là một viên ngọc quý trong bức tranh văn hóa đa dạng của Việt Nam. Việc trân trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa độc đáo này không chỉ góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của cộng đồng mà còn tạo động lực cho sự phát triển bền vững của vùng đất biên cương. Hãy cùng nhau chung tay để tiếng khèn Mông mãi ngân vang, sắc màu thổ cẩm mãi rực rỡ trên những rẻo cao Nghệ An.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thống kê dân số và địa bàn cư trú: Các số liệu về số hộ, nhân khẩu, địa bàn cư trú của người Mông ở các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, tỉnh Nghệ An (Báo cáo Ban dân tộc tỉnh Nghệ An 2024).
2. Hoàng Xuân Lương: Văn hóa người Mông ở Nghệ An, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội 2000.
3. Ninh Viết Giao: Địa chí huyện Tương Dương, NXB Khoa học xã hội, Hà Nôi 2003.
GVC. TS. Thái Xuân Sang, Trường Chính trị Nghệ An
Nguồn VHPT : https://vanhoavaphattrien.vn/ban-sac-van-hoa-nguoi-mong-o-nghe-an-tren-reo-cao-bien-gioi-viet-lao-a28579.html