Quy định rõ thời hạn khai thác trong tình huống khẩn cấp
Cho ý kiến về đối với hoạt động khai thác, thu hồi, sử dụng khoáng sản nhóm 3 và nhóm 4 nhằm đáp ứng yêu cầu khẩn cấp về thiên tai, dịch bệnh hoặc an ninh quốc phòng, đại biểu Trần Nhật Minh (Nghệ An) đề nghị, cơ quan soạn thảo nghiên cứu bổ sung quy định về thời hạn chấm dứt việc khai thác trong các trường hợp này.
ĐBQH Trần Nhật Minh (Nghệ An) phát biểu
Theo đại biểu, nên quy định theo hướng "việc khai thác sẽ bị chấm dứt ngay khi công tác ứng phó với tình trạng khẩn cấp đã hoàn thành"; đồng thời, có sự ràng buộc cụ thể vì thời hạn cấp phép khai thác thông thường thường rất dài. Bởi, nếu không quy định rõ ràng, sau khi tình trạng khẩn cấp kết thúc, doanh nghiệp vẫn có thể tiếp tục hoạt động khai thác mà chưa thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định.
Đại biểu Trần Nhật Minh cũng đề nghị, cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu sửa đổi, bổ sung khoản 4, Điều 111 về quy định chuyển tiếp của Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024 với lí do: dự thảo hiện tại chưa đặt ra vấn đề này, nhưng thực tiễn cho thấy, quy định nêu trên đã và đang tạo ra vướng mắc cho doanh nghiệp khai thác khoáng sản.
Theo khoản 4, Điều 111 của Luật hiện hành, đối với trường hợp đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt trữ lượng khoáng sản trước ngày luật có hiệu lực (trước ngày 1.5.2025), quyền ưu tiên cấp phép khai thác chỉ áp dụng trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày phê duyệt trữ lượng. Quy định này khiến nhiều doanh nghiệp không thể thực hiện được quyền ưu tiên vì đã quá thời hạn do nguyên nhân khách quan.
Đại biểu dẫn chứng, tại Nghệ An, nhiều dự án được cấp phép thăm dò và phê duyệt trữ lượng theo Luật Khoáng sản năm 2010 (giai đoạn 2010 – 2012), nhưng việc cấp giấy phép khai thác sau đó gặp nhiều trở ngại do sự thay đổi chính sách quản lý Nhà nước, kéo dài từ 2012 đến 2024. Cụ thể, ngày 9.1.2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 02/CT-TTg về tăng cường công tác quản lý hoạt động khoáng sản, trong đó tạm dừng việc cấp phép thăm dò, khai thác một số loại khoáng sản như đá trắng, đá hoa, đá granit. Đến ngày 30.3.2015, Chỉ thị số 03/CT-TTg được ban hành thay thế, cho phép tiếp tục cấp phép nhưng yêu cầu phải phù hợp với quy hoạch khoáng sản và đáp ứng thêm nhiều điều kiện nghiêm ngặt khác…
ĐBQH Võ Thị Minh Sinh (Nghệ An) chủ trì phiên thảo luận tổ.
Đại biểu đánh giá, những thay đổi về chính sách pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực khoáng sản dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp phải dừng toàn bộ các thủ tục khai thác. “Việc chậm trễ trong cấp giấy phép khai thác không phải do lỗi chủ quan của doanh nghiệp, mà xuất phát từ nguyên nhân khách quan trong thay đổi chính sách và công tác quản lý nhà nước”, đại biểu Trần Nhật Minh nhấn mạnh.
Theo quy định hiện hành, quyền ưu tiên đề nghị cấp phép khai thác chỉ được thực hiện trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày phê duyệt trữ lượng. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khách quan nêu trên, nhiều doanh nghiệp đã hết thời hạn, mất quyền ưu tiên, dẫn đến thiệt hại lớn về quyền lợi và chi phí đầu tư.
Để tháo gỡ vướng mắc, đại biểu đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định sửa đổi Khoản 4 Điều 111 của Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2004 theo hướng: "đối với các trường hợp đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trữ lượng khoáng sản trước ngày 1.7.2025, thì trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, quyền ưu tiên đề nghị cấp giấy phép khai thác khoáng sản được thực hiện theo quy định tại Điều 48 của Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2004".
Theo đại biểu Trần Nhật Minh, cách quy định này sẽ giúp doanh nghiệp có thêm thời gian để thực hiện quyền ưu tiên, bảo đảm tính công bằng, hợp lý, đồng thời phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về khuyến khích, hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tư nhân, thúc đẩy khai thác, sử dụng tài nguyên hiệu quả, bền vững và đúng pháp luật.
Khắc phục chồng lấn quy hoạch khoáng sản
Còn theo đại biểu Nguyễn Hữu Thông (Lâm Đồng), thực tiễn triển khai các dự án quan trọng quốc gia cho thấy, nhiều địa phương không thể thực hiện dự án trên địa bàn do chồng lấn với khu vực quy hoạch khoáng sản. Từ thực tế đó, đại biểu kiến nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát quy định tại Điều 11 và Điều 12 của Luật Địa chất và khoáng sản hiện hành để điều chỉnh, bảo đảm đồng bộ với Luật Quy hoạch và phù hợp với thực tiễn quản lý tại địa phương.
Cũng theo đại biểu, khoản 3 Điều 75 Luật Địa chất và khoáng sản quy định: trong trường hợp thu hồi khoáng sản nhóm I theo điểm b và điểm c khoản 1 Điều này, chủ đầu tư hoặc nhà đầu tư phải đánh giá hiệu quả kinh tế khi thu hồi khoáng sản và báo cáo cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để xem xét, quyết định.
ĐBQH Nguyễn Hữu Thông (Lâm Đồng) phát biểu.
Tuy nhiên, trong Luật Địa chất và khoáng sản và Luật Quy hoạch hiện chưa có quy định rõ sau khi đánh giá hiệu quả kinh tế khi thu hồi khoáng sản thì có được triển khai thực hiện các dự án đầu tư hay phải chờ điều chỉnh quy hoạch khoáng sản và cập nhật các quy hoạch chuyên ngành khác mới được thực hiện dự án. “Nếu không có quy định cụ thể thì khi Luật Địa chất và khoáng sản, Luật Quy hoạch có hiệu lực sẽ không giải quyết được những vướng mắc liên quan đến chồng lấn quy hoạch như trong thực tiễn thời gian vừa qua”, đại biểu Nguyễn Hữu Thông nhấn mạnh.
Thực tiễn cho thấy, một số mỏ khoáng sản (titan, bô xít) nằm lộ thiên (từ bề mặt địa hình xuống khoảng 5–7 m) nhưng phân bố trên diện tích bề mặt lớn, dẫn đến quy hoạch khoáng sản chồng lấn lên nhiều diện tích đất nông nghiệp, đất ở của người dân. Trong khi đó, thời gian khai thác không thể tiến hành đồng thời trên toàn bộ khu vực; có những nơi đã được cấp phép nhưng phải 10 đến 20 năm sau mới được khai thác đến. Điều này ảnh hưởng đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, cấp giấy phép xây dựng cho người dân trong vùng quy hoạch khoáng sản không thực hiện được, từ đó tác động đến quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người dân.
Các ĐBQH tỉnh Lâm Đồng dự phiên thảo luận tổ
Để kịp thời tháo gỡ cho địa phương, đại biểu Nguyễn Hữu Thông kiến nghị cần rà soát kỹ các vấn đề nêu trên để sửa đổi, bổ sung Luật Quy hoạch và Luật Địa chất và khoáng sản, nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng đến phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Đặc biệt, cần giải quyết nhu cầu, quyền lợi hợp pháp của người dân có đất trong vùng quy hoạch khoáng sản, bảo đảm họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được chuyển mục đích sử dụng đất và được phép xây dựng nhà ở trong các vùng quy hoạch khoáng sản có tính chất đặc thù như titan, bô xít.
Quản lý, phát triển bền vững tài nguyên đất hiếm
Góp ý về khoản 12, điều 1 của dự thảo, sửa đổi khoản 1 Điều 48 liên quan đến quyền ưu tiên nộp hồ sơ cấp phép khai thác, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) cho rằng: quy định cho phép tổ chức, cá nhân đã thực hiện thăm dò khoáng sản được ưu tiên cấp phép khai thác trong thời hạn 36 tháng đối với nhóm I, II và 18 tháng đối với nhóm III là hợp lý, phù hợp với nguyên tắc “thăm dò trước, khai thác sau”.
Theo đại biểu, các mỏ thuộc nhóm I và II thường có quy mô lớn, yêu cầu vốn đầu tư cao, công nghệ phức tạp, thời gian chuẩn bị dự án, lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, thiết kế cơ sở và huy động nguồn vốn kéo dài, do đó thời hạn 36 tháng là cần thiết để bảo đảm tính khả thi. Trong khi đó, khoáng sản nhóm III thường là vật liệu xây dựng thông thường, quy mô nhỏ hoặc vừa, thủ tục và công nghệ đơn giản, nên thời hạn 18 tháng là phù hợp, giúp rút ngắn thời gian đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Đại biểu nhấn mạnh, quy định này không chỉ bảo đảm quyền lợi chính đáng của các tổ chức, cá nhân đã đầu tư vào hoạt động thăm dò mà còn khuyến khích doanh nghiệp đầu tư dài hạn vào lĩnh vực này. Tuy nhiên, để tránh rủi ro và tình trạng “giữ mỏ” mà không khai thác, cần bổ sung các quy định chi tiết nhằm giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền ưu tiên. Cụ thể, phải có cơ chế xác định rõ sau thời hạn ưu tiên, nếu tổ chức, cá nhân không nộp hồ sơ xin cấp phép thì khu vực đó phải được đưa ra đấu giá công khai nhằm tối ưu hóa khai thác tài nguyên và tránh lãng phí.
ĐBQH Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) phát biểu
Đánh giá cao việc dự thảo bổ sung Chương VIIa – Quản lý nhà nước về địa chất, khoáng sản đối với đất hiếm, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh cho rằng đây là nội dung rất cần thiết, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Nhà nước trong bảo vệ tài nguyên đặc biệt quan trọng này. Đất hiếm được coi là “vàng công nghệ” hay “dầu mỏ mới” của thế kỷ XXI vì là thành phần không thể thiếu trong các ngành công nghệ cao, năng lượng tái tạo, điện tử và quốc phòng.
Đại biểu phân tích, việc quản lý chặt chẽ đất hiếm nhằm bảo đảm chủ quyền công nghệ, kiểm soát chuỗi cung ứng, đồng thời hạn chế xuất khẩu thô để nâng cao giá trị gia tăng thông qua chế biến sâu. Điều này giúp Việt Nam chủ động nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp mũi nhọn, phát triển sản phẩm công nghiệp có giá trị cao và tránh tình trạng bán rẻ tài nguyên chiến lược.
Ngoài ra, hoạt động khai thác và chế biến đất hiếm tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm cao do sử dụng hóa chất độc hại và phát sinh chất thải phóng xạ. Do đó, cần tăng cường quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn môi trường để bảo đảm an toàn cho cộng đồng và phát triển bền vững.
Về nội dung cụ thể, đại biểu đề nghị sửa đổi điểm 5 của dự thảo theo hướng bổ sung cụm từ “chuyển giao công nghệ” vào sau cụm “nghiên cứu, phát triển” trong quy định về hợp tác quốc tế. Việc bổ sung này là cần thiết vì trong thực tiễn, chuyển giao công nghệ là khâu then chốt giúp Việt Nam tiếp nhận kỹ thuật tiên tiến, nâng cao năng lực chế biến sâu và chủ động nguồn nhân lực chất lượng cao.
Toàn cảnh phiên thảo luận tại Tổ 7
Đồng thời, đề nghị chỉnh sửa điểm 6 của dự thảo để bổ sung cụm từ “yêu cầu đảm bảo an ninh tài nguyên” trước cụm “và mục tiêu phát triển bền vững kinh tế - xã hội”. Việc bổ sung này phản ánh đúng mục tiêu của việc xây dựng chương mới, đó là quản lý tài nguyên đất hiếm gắn với chiến lược an ninh, quốc phòng và bảo đảm chủ quyền năng lượng quốc gia.
Về điểm h khoản 2 điều 1 của dự thảo, quy định “thời hạn của giấy phép không phụ thuộc vào thời kỳ của quy hoạch khoáng sản, quy hoạch tỉnh”, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh bày tỏ sự băn khoăn. Theo đại biểu, quy định này dù nhằm tạo sự linh hoạt trong trường hợp đặc biệt nhưng có thể dẫn đến xung đột với Luật Quy hoạch và phá vỡ tính ổn định của hệ thống quy hoạch quốc gia.
Nếu cho phép thời hạn giấy phép kéo dài vượt quá thời kỳ của quy hoạch hiện hành, sẽ nảy sinh rủi ro khi quy hoạch mới được phê duyệt, gây khó khăn cho công tác quản lý và điều phối phát triển tổng thể của địa phương, đồng thời ảnh hưởng đến việc sử dụng hiệu quả tài nguyên.
Đại biểu đề nghị, cần giới hạn thời hạn của giấy phép cấp lại, gia hạn hoặc điều chỉnh trong tình trạng khẩn cấp không vượt quá thời gian còn lại của quy hoạch hiện hành, hoặc chỉ kéo dài tương ứng với thời gian của tình trạng khẩn cấp được công bố theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, cơ quan cấp phép cần quy định rõ trong quyết định cho phép khai thác về khối lượng, phạm vi, giới hạn tài nguyên được khai thác để tránh lợi dụng chính sách trong các trường hợp đặc biệt.
Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh cũng đề nghị bổ sung quy định về quỹ dự phòng hoặc cơ chế bồi thường, hỗ trợ người dân trong trường hợp xảy ra sự cố môi trường do hoạt động khai thác khẩn cấp gây ra. Việc này không chỉ góp phần bảo đảm an sinh xã hội mà còn thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý tài nguyên gắn với phát triển bền vững.
Diệp Anh