Giá lợn hơi ở nhiều địa phương đã chạm mốc 80 nghìn đồng/kg. Điều này một phần do tình hình dịch bệnh trên đàn lợn diễn biến phức tạp từ năm ngoái đến đầu năm nay. Đồng thời là do quy định phải di chuyển trang trạng chăn nuôi không đủ điều kiện ra ngoài khu vực không được phép chăn nuôi khiến nhiều trang trại nuôi lợn dừng hoạt động. Những điều đó khiến nguồn cung giảm, không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường.
Giá lợn giống tăng
Trước việc giá lợn hơi tăng, nhiều nông dân, HTX đang đẩy mạnh hoạt động tái đàn. Tuy nhiên, một vấn đề khó khăn đặt ra hiện nay với không ít HTX là không đủ nguồn giống chất lượng phục vụ chăn nuôi hoặc giá lợn giống cao do khan hiếm.
Ông Nguyễn Văn Việt, Giám đốc HTX dịch vụ chăn nuôi Siêu Việt (Hưng Yên) cho biết, giá lợn hơi cao nên nhu cầu tái đàn tăng kéo theo giá lợn giống tăng.
Hiện, giá lợn giống 7-10kg tại những tỉnh lân cận Hưng Yên đang ở mức 2,3-2,7 triệu đồng/con. Cá biệt có những đơn vị ở các tỉnh, thành khác bán với giá 3-3,2 triệu đồng/con lợn giống 10kg. Các doanh nghiệp chăn nuôi hiện nay xuất bán con giống cũng rất ít và người mua cần đặt cọc nhưng vẫn phải chờ cả tháng mới có. Đó là chưa tính đến giá lợn hậu bị đang có giá khoảng 22 triệu đồng/con.
Trước đây, trong giai đoạn giá lợn hơi ở mức 52- 58 nghìn đồng/kg thì giá lợn giống chỉ vào khoảng trên dưới 1 triệu đồng/con 7-10 kg; giá lợn hậu bị cũng chỉ khoảng 9-11 triệu đồng/con. Như vậy, giá lợn giống thời điểm này đã cao hơn 2 lần.
Để phát triển ngành chăn nuôi lợn phải chủ động được nguồn giống.
Theo đánh giá của một doanh nghiệp chăn nuôi, hiện giá lợn giống trên các vùng miền cả nước đều ở mức cao, dao động khoảng 1.440.000-2.250.000 đồng/con lợn giống 7-10kg. Giá lợn giống tăng được các đơn vị cung ứng giống lý giải là do nhu cầu chăn nuôi đang tăng khi giá lợn hơi lên cao. Đi liền với đó là giá xăng dầu cũng tăng nên tác động một phần đến giá giống.
Trong đó, nếu tính toán thì hiện nay trong quá trình chăn nuôi lợn, giá sản xuất 1 con lợn khoảng 1 tạ là 6 - 6,5 triệu đồng. Trong đó, chi phí con giống 1,5-2,2 triệu đồng, chi phí thức ăn khoảng 2,8-3 triệu đồng, chi phí thuốc thú y khoảng 500 nghìn đồng. Với giá bán trung bình 77 nghìn đồng/kg lợn hơi thì người chăn nuôi có thu được lãi sau khoảng 4 tháng nuôi, nhưng đây là chưa tính đến rủi ro phát sinh.
Theo các chuyên gia, dù ngành chăn nuôi lợn những năm gần đây đã chuyển dịch dần sang chăn nuôi trang trại, quy mô lớn vì chăn nuôi nhỏ lẻ đã giảm khoảng 15-20%, nhưng vấn đề nguồn giống đảm bảo chất lượng vẫn chưa được tháo gỡ.
Hiện, đối với các doanh nghiệp chăn nuôi lớn, nguồn giống được chủ động do chăn nuôi theo chuỗi. Và một số HTX chăn nuôi quy mô lớn cũng đã làm được điều này. Tuy nhiên, nguồn lợn giống của những đơn vị này chủ yếu đủ dùng phục vụ chăn nuôi cho chính các chuỗi của doanh nghiệp , HTX, chỉ có một phần nhỏ được tiêu thụ ra ngoài.
Trong khi đó, nguồn giống của các nông hộ chủ yếu do tự phối giống hoặc mua ở các chợ, các điểm bán không đảm bảo chất lượng. Điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đàn vật nuôi.
Cần chủ động nguồn giống
Một trong những quy luật trong chăn nuôi là muốn tái đàn phải có lợn nái sinh sản. Theo tính toán của ngành chăn nuôi, cả nước lúc cao điểm nhất cũng mới có khoảng 4 triệu lợn nái, trong đó 1,2-1,4 triệu lợn nái là ở các doanh nghiệp. Dù điều kiện chăn nuôi, sinh sản lợn ở doanh nghiệp có tốt hơn nhưng đàn lợn nái trong khu vực này cũng không thể đáp ứng đủ nhu cầu lợn giống phục vụ chăn nuôi trên quy mô cả nước. Do đó, tình trạng nhập giống lợn, lợn nái vẫn diễn ra.
Để nâng cao chất lượng đàn lợn và giảm chi phí chăn nuôi, một vấn đề cần phải giải quyết đó chính là chủ động được nguồn giống. Hiện nay, nhiều HTX đã tập trung vào nuôi lợn giống vì theo tính toán, với mức giá hiện nay, sau quá trình nuôi và trừ chi phí, chủ trang trại có thể lãi từ 600 – 900 nghìn đồng/con lợn giống.
Theo ông Lê Mạnh Quý, Giám đốc HTX chăn nuôi Quý Hiền (Lào Cai), để nuôi được lợn giống thì phải có lợn nái. Mà để đầu tư được lợn nái thì giá cả cũng rất cao, trung bình phải trên 10 triệu đồng/con, nên không phải đơn vị nào cũng có đủ năng lực để đầu tư.
Còn một số đơn vị tính toán đến việc giữ lợn lại để làm lợn giống thì quá trình nuôi và giữ được một con giống cũng rất dài, phải tính theo năm. Mà khi có được kết quả thì chưa chắc giá lợn hơi còn ở mức cao.
Theo Cục Chăn nuôi, đàn lợn nái bản địa ở Việt Nam có chất lượng con giống chưa thực sự tốt khi mỗi con nái đẻ trung bình khoảng 1,8 lứa/năm; mỗi lợn nái chỉ đẻ được khoảng 10 lợn thịt/năm.
Việc nhập giống lợn ngoại về nghiên cứu lai tạo đã có những thành công nhất định khi cho ra một số giống lợn có năng suất cao hơn. Vậy nhưng điều này vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu vì khi nhập giống, nếu thực hiện nuôi theo quy trình và điều kiện khí hậu ở Việt Nam thì hiệu quả vẫn không cao như những giống ngoại được nuôi theo quy trình và điều kiện khí hậu của các nước.
Do đó, việc đầu tư cho cải tạo và nâng cấp đàn giống để nâng cao năng suất sinh sản bình quân vẫn cần được chú trọng. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu và chủ động nguồn thức ăn cho lợn giống, lợn nái cũng cần được đẩy mạnh để tránh kiểu bị động. Bởi ở 3 miền Bắc -Trung-Nam khí hậu khác nhau, cần có công thức thức ăn khác nhau để tránh lãng phí thức ăn nhưng vừa đảm bảo năng suất sinh sản.
Hiện, phần lớn thức ăn cho lợn nái đều được mua từ các doanh nghiệp với tỷ lệ protein cao, còn tỷ lệ lysine thấp hơn mức khuyến cáo của Hội đồng Nghiên cứu quốc gia Hoa Kỳ (NRC).
Huyền Trang