Tôn Vũ - Từ lý thuyết gia binh pháp đến vị tướng làm nên những chiến thắng huyền thoại
Binh pháp tôn tử được soạn bởi Tôn Vũ khoảng năm 496 – 453 trước công nguyên. Cuốn binh pháp chỉ có hơn 7.000 chữ, lời văn cực kỳ đơn giản nhưng nội dung lại vô cùng phong phú, không chỉ áp dụng trong chiến tranh mà cả trong cuộc sống, kinh doanh. Nói đến Binh pháp Tôn Tử, mặc dù nhiều người chưa từng đọc nó nhưng cũng có thể biết đến 36 kế.
Tôn Tử, là nhà quân sự lỗi lạc của Trung Quốc sống vào cuối thời Xuân Thu. Một trong những tác phẩm quan trọng nhất, đúc kết kinh nghiệm chiến trường, tư duy chiến tranh quân sự của Tôn Tử đấy chính là bộ Binh Pháp Tôn Tử.
Tôn Tử (Tôn Vũ)-nhà lý luận quân sự nổi tiếng, lập nhiều công lớn, xứng danh với những tôn vinh trong sử sách. Tuy nhiên, có một vấn đề còn nhiều tranh luận là: Tôn Vũ đã trực tiếp chỉ huy bao nhiêu trận đánh. Các nhà nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc đã đối chiếu, tổng hợp, so sánh từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau đã khẳng định: Tôn Vũ trực tiếp chỉ huy 5 trận đánh. Và chính 5 trận “kinh điển” này đã góp phần đưa tên tuổi của ông sống cùng thời gian.
Lần thứ nhất, năm 512 trước Công nguyên, khi đó Ngô Vương là Hạp Lư ra lệnh cho Tôn Vũ chỉ huy quân tiêu diệt hai nước nhỏ là Chung Ngô và nước Từ. Trong lần cầm quân đầu tiên này, Tôn Vũ đã hạ gọn hai nước, đồng thời thừa thắng chiếm được đất Thư thuộc nước Sở lập công lớn được Ngô Vương ban thưởng.
Lần thứ hai, năm 511 trước Công nguyên, theo lệnh của Hạp Lư, Tôn Vũ lại thống lĩnh ba quân cùng Ngũ Tử Tư, Bạch Hỷ đi chinh phạt nước Sở bởi lý do “Sở Vương từ chối không chịu trao thanh bảo kiếm Trạm Lô cho Hạp Lư”. Dưới quyền chỉ huy của Tôn Vũ quân Ngô đánh hai trận thắng cả hai, chiếm gọn hai xứ Lục và Tiềm thuộc đất Sở.
Lần thứ ba, năm 510 trước Công nguyên, đó là lần đầu tiên giữa nước Ngô và nước Việt xảy ra cuộc chiến tranh quy mô lớn. Sử sách còn ghi, đó là cuộc “Đại chiến Huề-Lý”. Trong cuộc chiến này, lần đầu tiên Tôn Vũ đưa ra quan niệm về dụng binh “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, do vậy chỉ với 3 vạn quân với nghệ thuật dụng binh tài tình của mình, Tôn Vũ đã đánh bại 16 vạn quân nước Việt.
Lần thứ tư, năm 509 trước Công nguyên xảy ra cuộc “đại chiến Dự Chương” giữa hai nước Ngô và Sở. Khi đó, vua Sở sai con trai là công tử Tử Thường và công tử Tử Phàm dẫn đại quân tiến đánh nước Ngô, nhằm báo thù nỗi nhục mất đất năm xưa. Một lần nữa Ngô Vương Hạp Lư lại giao cho Tôn Vũ cầm quân chống giặc. Lần này Tôn Vũ khôn khéo vòng tránh đội quân chủ lực của công tử Thường, sau đó thực hiện vu hồi tập kích vào doanh trại bắt sống công tử Phàm. Quân Sở từ thế mạnh, chuyển sang yếu, cầm cự chưa được một tháng đã phải rút chạy về nước.
Lần thứ năm, năm 506 trước Công nguyên, hai nước Ngô-Sở một lần nữa xảy ra chiến tranh, sử gọi đây là “cuộc chiến Bách Cử”. Đây là cuộc chiến lớn nhất trong lịch sử hai nước. Lần này, quân Sở huy động 25 vạn quân tiến đánh nước Ngô, khí thế báo thù rất sôi sục.
Theo kế của Tôn Vũ và Ngũ Tử Tư, vua Ngô bí mật liên kết với hai nước nhỏ là Đường và Thái hình thành liên minh chống Sở. Khi tác chiến, Tôn Vũ triệt để lợi dụng địa hình, địa vật thuận lợi của hai nước, triển khai chiến thuật “Khống chế chính diện”, “Tập kích vu hồi” của mình. Sau 5 lần giao chiến với quân Sở, Tôn Vũ đều giành thắng lợi. Cuối cùng, 3 vạn quân Ngô đã phá tan 25 vạn quân Sở tiến vào kinh đô nước Sở, buộc Sở vương phải tháo chạy.
Năm trận đánh “kinh điển” thể hiện tài thao lược quân sự của Tôn Vũ, cùng với bộ “Binh pháp” 13 thiên, khiến tên tuổi của ông lừng danh khắp thế giới.
36 kế binh pháp Tôn Tử
1. Dương đông kích tây (Đánh lạc hướng đối phương)
2. Điệu hổ ly sơn (Dụ hổ ra khỏi rừng)
3. Nhất tiễn hạ song điêu (Một mũi tên hạ hai con chim)
4. Minh tri cố muội (Biết rõ mà làm như không biết)
5. Du long chuyển phượng (Biến rồng thành phượng)
6. Mỹ nhân kế (Kế dùng gái đẹp)
7. Sấn hỏa đả kiếp (Theo lửa mà hành động)
8. Vô trung sinh hữu (Không có mà làm thành có)
9. Tiên phát chế nhân (Ra tay trước để chế phục đối phương)
10. Đả thảo kinh xà (Đập cỏ làm cho rắn sợ)
11. Tá đao sát nhân (Mượn đao để giết người)
12. Di thể giá họa (Dùng vật gì để vu khống người ta)
13. Khích tướng kế (Kế chọc giận tướng giặc)
14. Man thiên quá hải (Lợi dụng sương mù để lẩn trốn)
15. Ám độ trần sương (Đi con đường mà không ai nghĩ đến)
16. Phản khách vi chủ (Đổi vị khách thành vị chủ)
17. Kim thiền thoát xác (Ve sầu vàng lột xác)
18. Không thành kế (Kế bỏ trống cửa thành)
19. Cầm tặc cầm vương (Dẹp giặc phải bắt tướng giặc)
20. Ban chư ngật hổ (Giả làm con heo để ăn thịt con hổ)
21. Quá kiều trừu bản (Qua cầu rồi phá cầu)
22. Liên hoàn kế (Kế móc nối nhau)
23. Dĩ dật đãi lao (Lấy khỏe để đối phó với mệt)
24. Chỉ tang mạ hòe (Chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe)
25. Lạc tỉnh hạ thạch (Ném đá vào người dưới giếng)
26. Hư trương thanh thế (Thổi phồng thanh thế)
27. Phủ để trừu tân (Bớt lửa dưới nồi)
28. Sát kê hách hầu (Giết gà cho khỉ sợ)29. Phản gián kế (Dùng kế của đối phương để quật lại)
30. Lý đại đào cương (Đưa cây lý chết thay cây đào)
31. Thuận thủ khiên dương (Thuận tay dắt con dê về)
32. Dục cầm cố tung (Muốn bắt mà lại thả ra)
33. Khổ nhục kế (Hành hạ thân xác mình để người ta tin)
34. Phao bác dẫn ngọc (Ném hòn ngói để thu về hòn ngọc)
35. Tá thi hoàn hồn (Mượn xác để hồn về)
36. Tẩu kế (Chạy, lùi, thoát thân)
Theo TS Nguyễn Văn Bạo/Báo Quân đội Nhân dân