Khởi động cách đây hơn 6 năm như một sáng kiến khu vực, dự án "Biến rác thải nhựa đại dương thành cơ hội trong nền kinh tế tuần hoàn" - OPTOCE ban đầu được triển khai ở 5 quốc gia, bao gồm Việt Nam, sau đó được mở rộng trên 8 quốc gia khắp châu Á.
Dự án giúp xử lý hơn 1 triệu tấn nhựa không thể tái chế, thay thế 500.000 tấn than và cắt giảm đáng kể khí thải CO₂, Đại sứ Na Uy tại Việt Nam Hilde Solbakken ngày 3/10 chia sẻ tại Hội thảo "Từ thí điểm đến chính sách: Giải quyết rác thải nhựa không thể tái chế thông qua đồng xử lý trong ngành xi-măng".
Đại sứ Na Uy tại Việt Nam Hilde Solbakken.
Biến rác thải thành nhiên liệu cho sản xuất xi măng
Trong khuôn khổ dự án, Viện nghiên cứu Sintef (Na Uy) đã phối hợp với các doanh nghiệp sản xuất xi măng Việt Nam tiến hành việc đồng xử lý rác thải nhựa, rác thải nhựa đại dương trong lò nung clinker, xi măng tạo ra nguồn năng lượng tái tạo thay thế việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch.
Việc thí điểm phương pháp đồng xử lý tại các nhà máy xi măng INSEE và Lam Thạch mở ra một hướng đi mới trong nỗ lực xử lý rác thải nhựa.
“So với các phương pháp đốt thông thường, đồng xử lý ngăn ngừa việc giải phóng khí metan và không tạo ra các hạt nguy hiểm như tro bay. Nhiệt độ rất cao từ các lò nung xi măng phân hủy hoàn toàn các chất độc hại, các khoáng chất được hấp thụ vào xi măng”, Giáo sư Kåre Helge Karstensen, Trưởng nhóm khoa học và Giám đốc Chương trình OPTOCE phân tích.
Thành công của dự án đã chứng minh rằng, việc đồng xử lý nhựa không thể tái chế trong các lò nung xi măng không chỉ khả thi về mặt kỹ thuật, thân thiện với môi trường mà còn có thể mang lại tác động nhanh chóng và trên quy mô lớn.
“Trong hơn 30 năm, Na Uy sử dụng 2 lò nung xi măng để xử lý rác thải hữu cơ nguy hại, hơn 75% than đá được thay thế bởi các loại rác thải trong ngành xi măng”, bà Hilde Solbakken cho biết.
Đại sứ Na Uy khẳng định cam kết nhân rộng cách tiếp cận này tại Việt Nam và trong toàn khu vực, đặc biệt trong khuôn khổ hợp tác JETP của Na Uy và Việt Nam.
Chi phí và tính bổ trợ hấp dẫn
Dẫn một nghiên cứu tại Ấn Độ, Đại sứ Na Uy cho biết, chi phí xử lý rác thải bằng đồng xử lý chỉ khoảng 25 USD/tấn, chưa đến một nửa so với chi phí đốt truyền thống (62 USD/tấn).
“Điều này đặc biệt quan trọng tại Việt Nam, nơi ngành xi măng phát thải hơn 60 triệu tấn CO₂ mỗi năm, chiếm hơn 15% tổng phát thải quốc gia”, bà Solbakken nói.
Giáo sư Kåre Helge Karstensen, Trưởng nhóm khoa học và Giám đốc Chương trình OPTOCE phát biểu tại Hội thảo ngày 3/10. Ảnh: Liên Hà
Theo Giáo sư Kåre Helge Karstensen, đồng xử lý có thể trở thành giải pháp bổ trợ hiệu quả, phối hợp với các phương pháp quản lý rác thải khác.
Ông cũng thông tin, tại Na Uy các doanh nghiệp xi măng nhận được nguồn thu từ 3 nguồn khi áp dụng phương pháp này. Thứ nhất là giảm phụ thuộc và chi phí vào tiêu thụ than đá, thứ hai là phí khi xử lý rác trong quá trình sản xuất – vốn rất tốn kém ở châu Âu (đặc biệt là rác thải nguy hại có phí cao) và thứ ba là từ tín chỉ carbon.
Dù mỗi một quốc gia có cách điều hành xử lý rác thải khác nhau, thực tiễn này cũng rất cần xem xét trong bối cảnh Việt Nam, theo Giám đốc Chương trình OPTOCE.
Từ thí điểm đến thực tiễn
Theo PGS. TS Lương Đức Long, Phó Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam, xử lý rác thải, trong đó có rác thải nhựa, rác thải nhựa đại dương, mang lại hiệu quả môi trường rõ rệt nhưng để thực hiện được điều này rất cần các cơ chế chính sách của Nhà nước cả về hỗ trợ tài chính lẫn việc định hướng thu gom, sơ chế theo khu vực lãnh thổ, ưu tiên cho các công nghệ thích hợp…
“Nếu chung tay, phương thức có thể nhân rộng, qua đó biến rác thành "vàng đen", biến nhà máy xi măng thành cơ sở đồng xử lý hoàn hảo nhất”, ông Long cho biết.
Khẳng định bước tiếp theo là tích hợp giải pháp này vào các khuôn khổ chính sách quốc gia để thúc đẩy thay đổi mang tính hệ thống, Giáo sư Kåre Helge Karstensen gợi ý, cần một “sân chơi” công bằng cho các phương pháp xử lý rác thải khác nhau để có thể tăng cường hiệu quả. Ví dụ đưa ra trợ cấp ưu đãi tương tự cho các mô hình đốt rác phát điện với đồng xử lý.
Tú Anh