Góp ý vào dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng, các ý kiến đều khẳng định: Dự thảo Báo cáo Chính trị thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược, quan điểm nhất quán và quyết tâm chính trị cao trong việc xây dựng, phát triển đất nước trong giai đoạn mới, kế thừa thành tựu to lớn sau gần 40 năm đổi mới và gần trọn nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII; đồng thời đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp mang tính đột phá cho giai đoạn tới. Việc đóng góp ý kiến rộng rãi cho dự thảo văn kiện từ các tầng lớp nhân dân, giới trí thức, cộng đồng doanh nghiệp và chuyên gia trong và ngoài nước vừa là biểu hiện sinh động của tính dân chủ trong khối đại đoàn kết dân tộc, vừa thể hiện "lòng dân" trong "ý Đảng".
Tạo thế và lực cho đất nước trong giai đoạn phát triển mới
Quan tâm đến nội dung phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường trong dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng, ông Nguyễn Quang Huân, đại biểu Quốc hội khóa XV, Phó Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Khoa học công nghệ và Chuyển đổi số của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam khẳng định nêu rõ: Về tổng thể, quan điểm chỉ đạo thứ 3 trong dự thảo Báo cáo chính trị đã "xác lập mô hình tăng trưởng mới lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia là động lực chính và phát triển kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất; hoàn thiện thể chế phát triển gắn với thực hiện đồng bộ 4 chuyển đổi: Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực...".
Ông Nguyễn Quang Huân, Đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương. Ảnh: baotintuc.vn
Như vậy, mối quan hệ hữu cơ giữa ba trụ cột: giáo dục và đào tạo cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao; khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tạo ra động lực phát triển mới; trong khi quản lý tài nguyên, chuyển dịch năng lượng, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu bảo đảm phát triển xanh. Bốn yếu tố này không tách rời mà bổ trợ cho nhau, tạo nên thế và lực mới cho đất nước trong giai đoạn phát triển mới. Điểm đáng ghi nhận, dự thảo đã thể hiện rõ tinh thần hội nhập quốc tế, không chỉ ở khía cạnh tiếp thu tri thức, công nghệ, còn ở việc chủ động tham gia vào giải quyết các vấn đề toàn cầu, từ biến đổi khí hậu đến chuyển đổi số, qua đó khẳng định vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Ông Nguyễn Quang Huân khẳng định: Đối với lĩnh vực giáo dục - đào tạo, ngoài những điểm nổi bật có ý nghĩa sâu sắc đã nêu trong dự thảo, cử tri, nhân dân đang rất quan tâm đến việc cần khắc phục tình trạng "sính" bằng cấp, thi cử nặng tính hình thức. Để thực hiện đúng tinh thần dự thảo, cần đổi mới mạnh mẽ phương thức đánh giá theo năng lực thực hành, bỏ xếp hạng kết quả học tập như hiện nay và không công bố công khai các điểm thi, điểm kiểm tra của học sinh như một số nước tiên tiến đang làm; bỏ các yêu cầu chứng chỉ, văn bằng không cần thiết trong tuyển dụng và bổ nhiệm công chức, viên chức mà thay bằng phỏng vấn trực tiếp để đánh giá nhân sự.
Bên cạnh đó, theo ông Nguyễn Quang Huân, cần kiên quyết đẩy lùi bệnh thành tích; quản lý chặt vấn nạn dạy thêm, học thêm; cập nhật chương trình giáo dục theo chuẩn quốc tế; giáo dục kỹ năng mềm một cách thực chất cho cả giáo viên, học sinh; xây dựng chiến lược tổng thể về du học sinh và đào tạo sau đại học tại nước ngoài...
Nhằm cụ thể hóa tinh thần của dự thảo, hướng tới xây dựng hệ sinh thái khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo hiệu quả, gắn với nhu cầu thực tiễn, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, ông Nguyễn Quang Huân đề nghị loại bỏ cơ chế nghiên cứu khoa học "đặt hàng từ trên xuống" để tuân theo sự điều tiết của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Dự thảo bổ sung giải pháp khuyến khích doanh nghiệp liên kết với các nhà khoa học ngay từ khâu nghiên cứu đề tài, chế tạo thử nghiệm; xây dựng cơ chế đặt hàng từ thị trường, từ nhu cầu của ngành và địa phương; hoàn thiện cơ chế khuyến khích tư nhân phát triển nghiên cứu khoa học, phối hợp "3 nhà" theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW gồm nhà nước – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các cấp, ngành tăng cường huy động phong trào toàn dân đổi mới sáng tạo; khuyến khích cộng đồng doanh nghiệp tham gia đổi mới sáng tạo; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến thay thế công nghệ lạc hậu...
Liên quan đến công tác bảo vệ môi trường, dự thảo xác định rõ yêu cầu "quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu". Đây là định hướng đúng đắn, phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam, nhất là tại Hội nghị COP26, với tuyên bố mục tiêu giảm phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050. Để các mục tiêu đó được hiện thực hóa, ông Nguyễn Quang Huân kiến nghị cần bổ sung vào dự thảo những nội dung liên quan đến việc giải quyết tình trạng thiếu nước sạch phục vụ sinh hoạt, bảo đảm an ninh nguồn nước theo Kết luận 36 của Bộ Chính trị ngày 23/6/2022; xử lý căn cơ vấn đề ô nhiễm rác thải, nước thải, khí thải từ sinh hoạt và từ các làng nghề, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp; cụ thể hóa lộ trình giảm phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.
"Với quyết tâm chính trị cao, sự vào cuộc đồng bộ của hệ thống chính trị, sự chung sức, đồng lòng của cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và từng người dân, chúng ta hoàn toàn có thể đạt được các mục tiêu đã đề ra trong dự thảo Báo cáo Chính trị. Đại hội XIV sẽ là dấu son của cả dân tộc bước vào kỷ nguyên mới, khẳng định ý chí, năng lực hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, hướng tới một Việt Nam hùng cường, phát triển nhanh, bền vững, thân thiện với môi trường và có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế" - ông Nguyễn Quang Huân nhấn mạnh.
Tiếp tục đổi mới tư duy phát triển trong kỷ nguyên mới
Thể hiện sự tâm đắc với những nội dung cơ bản về vấn đề: "Tiếp tục đổi mới tư duy phát triển" thể hiện trong dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Ngọc Đường, Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Dân chủ và pháp luật của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam phân tích: Đổi mới tư duy phát triển trước hết phải đổi mới nhận thức về động lực, mục tiêu của sự phát triển. Hiện nay, tư duy phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta còn chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ với đầu tư công lớn. Nhà nước làm thay thị trường, phát triển mạnh nhưng dẫn đến bất bình đẳng xã hội, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên khoáng sản. Bước vào kỷ nguyên mới đòi hỏi phải đổi mới tư duy phát triển. Đó là các tư duy: phát triển phải dựa vào đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Phải coi con người là trung tâm và chủ thể của sự phát triển, không đánh đổi môi trường và công bằng xã hội. Nhà nước phải đóng vai trò kiến tạo, phát triển, phục vụ nhân dân, tạo môi trường, không gian cho doanh nghiệp, thị trường phát triển. Như vậy, đổi mới tư duy phát triển không phải là một khẩu hiệu, phải được thể hiện trong mục tiêu, cơ chế, chính sách, pháp luật và phương pháp hành động.
Tiến sĩ Trần Ngọc Đường cho rằng vấn đề tiếp tục đổi mới tư duy phát triển cần được thể hiện thành một quan điểm lớn xuyên suốt trong dự thảo Văn kiện, bởi đây là vấn đề lớn mang tính lý luận có ý nghĩa chỉ đạo toàn bộ nội dung của dự thảo báo cáo chính trị. Cụ thể, làm rõ nội hàm của khái niệm "tiếp tục đổi mới tư duy phát triển" trong kỷ nguyên mới (hay giai đoạn mới); khái quát nội dung của vấn đề "tiếp tục đổi mới tư duy phát triển" trong kỷ nguyên mới, như các vấn đề "đổi mới tư duy phát triển" từ tư duy quản lý mệnh lệnh, quyền uy sang tư duy "kiến tạo và phục vụ", từ tư duy phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu; từ tư duy "bao cấp xin cho" sang tư duy "tự chủ, tự cường", từ tư duy "tập trung" sang tư duy "phân cấp, phân quyền cho địa phương"...
Đồng thời, bổ sung làm rõ thêm vấn đề "tiếp tục đổi mới tư duy phát triển" trong các mục về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước; phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa, con người Việt Nam; xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại ngang tầm khu vực và thế giới; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bổ sung quan điểm nhân dân không chỉ là người tham gia mà là chủ thể cùng với Nhà nước đồng kiến tạo thể chế, chính sách, pháp luật, đồng hành cùng Đảng, Nhà nước trong kiểm soát quyền lực đồng hưởng lợi và đồng trách nhiệm.
Do đó, cần khẳng định nhân dân là chủ thể tham gia vào toàn bộ quá trình phát triển. Phát huy vai trò chủ thể phát triển của nhân dân trong việc hoạch định, thực hiện, giám sát và hưởng thụ thành quả phát triển; nhấn mạnh việc ứng dụng công nghệ số để người dân tham gia trực tiếp và thường xuyên vào quá trình ra quyết định, phản biện và giám sát. Bên cạnh đó, xây dựng cơ chế pháp lý để người dân, MTTQ, các tổ chức xã hội của nhân dân thực hiện một cách thực chất chức năng giám sát, phản biện xã hội; mở rộng nội hàm của khái niệm đại đoàn kết không chỉ là về dân tộc, tôn giáo, vùng miền, trong nước và nước ngoài, còn về giới, thế hệ, tầng lớp mới, doanh nhân, trí thức, người yếu thế - Tiến sĩ Trần Ngọc Đường đề xuất.
Phúc Hằng (TTXVN)