Tổng Bí thư Tô Lâm ký ban hành Nghị quyết số 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Tổng Bí thư Tô Lâm đến thăm và tặng quà cho học sinh Trường Phổ thông cơ sở Nguyễn Đình Chiểu và Trường Phổ thông cơ sở Xã Đàn hồi tháng 6. (Ảnh: TTXVN)
Nghị quyết nêu rõ, Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Nhiều chủ trương, chính sách lớn đã được ban hành, thúc đẩy giáo dục và đào tạo đổi mới, phát triển mạnh mẽ, đạt được những kết quả quan trọng.
Việt Nam thuộc nhóm 21 quốc gia sớm đạt mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc đến năm 2030 về giáo dục chất lượng.
Tuy nhiên, giáo dục và đào tạo vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế, chưa thực sự trở thành động lực then chốt cho sự phát triển bứt phá của đất nước.
Cơ hội tiếp cận giáo dục còn thấp so với các nước phát triển; có sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, nhóm đối tượng. Đội ngũ nhà giáo, điều kiện cơ sở vật chất, trường lớp ở nhiều nơi không đáp ứng yêu cầu.
Bộ Chính trị nhận định, hệ thống giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp phát triển manh mún, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và nghiên cứu khoa học, nhất là ở một số ngành, lĩnh vực trọng điểm. Hiện tượng tiêu cực, bệnh hình thức trong giáo dục còn phổ biến...
Theo Bộ Chính trị, nguyên nhân chủ yếu là do chưa nhận thức và thực hiện quyết liệt quan điểm giáo dục và đào tạo là "quốc sách hàng đầu", là "sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân".
Bên cạnh đó, tư duy về quản lý và phát triển giáo dục chậm đổi mới, quan niệm về tự chủ và xã hội hóa giáo dục chưa phù hợp. Nguồn lực đầu tư cho giáo dục còn thấp, chính sách phân bổ và sử dụng nguồn lực chưa hiệu quả. Chế độ, chính sách với nhà giáo còn bất cập...
Trong bối cảnh thế giới có những thay đổi toàn diện, đặc biệt công nghệ số và trí tuệ nhân tạo đang tái định hình nền giáo dục, mỗi quốc gia đều phải xác định lại tầm nhìn và chiến lược mới cho hệ thống giáo dục trong tương lai. Việt Nam đang đứng trước vận hội lịch sử để phát triển bứt phá, yêu cầu xây dựng con người, nguồn nhân lực đặt ra rất quan trọng và cấp bách. Điều này đòi hỏi phải đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Từ thực tế trên, Bộ Chính trị chỉ đạo phải đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học thuộc top 100 thế giới
Tầm nhìn đến năm 2045, Bộ Chính trị đặt mục tiêu Việt Nam có hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng và chất lượng, đứng vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới.
Mọi người dân có cơ hội học tập suốt đời, nâng cao trình độ, kỹ năng và phát triển tối đa tiềm năng cá nhân. Nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài khoa học, công nghệ trở thành động lực và lợi thế cạnh tranh cốt lõi của đất nước, góp phần đưa Việt Nam thành nước phát triển, có thu nhập cao.
Phấn đấu ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín.
Mục tiêu gần hơn là đến năm 2030, cả nước hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 3-5 tuổi và giáo dục bắt buộc hết trung học cơ sở; ít nhất 85% người trong độ tuổi hoàn thành cấp trung học phổ thông và tương đương, không có tỉnh, thành phố đạt dưới 60%.
Đạt kết quả bước đầu về nâng cao năng lực công nghệ, trí tuệ nhân tạo và năng lực tiếng Anh ở bậc phổ thông. Chỉ số giáo dục đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) đạt trên 0,8, trong đó chỉ số bất bình đẳng giáo dục giảm xuống dưới 10%.
Với bậc đại học, việc đào tạo nguồn nhân lực cần đáp ứng yêu cầu Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp được sắp xếp phù hợp và đầu tư nâng cấp; phấn đấu 100% cơ sở giáo dục đại học và ít nhất 80% cơ sở giáo dục nghề nghiệp đạt chuẩn quốc gia, 20% cơ sở được đầu tư hiện đại tương đương các nước phát triển ở châu Á.
Bộ Chính trị yêu cầu tỷ lệ người trong độ tuổi theo học các trình độ sau trung học phổ thông đạt 50%. Tỷ lệ người lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên đạt 24%. Tỷ lệ người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ đạt ít nhất 35%, trong đó có ít nhất 6.000 nghiên cứu sinh, 20.000 người học các chương trình tài năng.
Một mục tiêu khác là nâng tầm các đại học trở thành trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp của quốc gia và của các vùng; tuyển dụng ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài. Các trường cần tăng bình quân 12% mỗi năm đối với số công bố khoa học quốc tế, nguồn thu từ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; 16% đối với số đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế.
Phấn đấu ít nhất 8 trường thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á, ít nhất một trường thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực vào năm 2030.
Mục tiêu đến năm 2035, Bộ Chính trị yêu cầu hoàn thành phổ cập trung học phổ thông và tương đương; chỉ số giáo dục đóng góp vào chỉ số HDI đạt trên 0,85; chỉ số vốn con người và nghiên cứu đóng góp vào chỉ số GII đạt trên mức bình quân của các nước có thu nhập trung bình cao.
Phấn đấu ít nhất 2 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín.
Anh Văn