Gỡ bỏ rào cản về thủ tục để hộ kinh doanh kê khai nộp thuế
Hiện nay, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh đang thực hiện nộp thuế theo phương pháp kê khai, phương pháp khoán hoặc theo từng lần phát sinh. Phương pháp khoán là phương pháp tính thuế theo tỷ lệ trên doanh thu khoán do cơ quan thuế xác định để tính mức thuế khoán theo quy định tại Điều 51 Luật Quản lý thuế.
Phương pháp này được áp dụng đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không thuộc trường hợp nộp thuế theo phương pháp kê khai và không thuộc trường hợp nộp thuế theo từng lần phát sinh. Trường hợp hộ khoán sử dụng hóa đơn do cơ quan thuế cấp, bán lẻ theo từng số thì hộ khoán khai thuế, nộp thuế riêng đối với doanh thu phát sinh trên hóa đơn đó theo từng lần phát sinh.
Gỡ bỏ rào cản về thủ tục để hộ kinh doanh kê khai nộp thuế. Ảnh: TL
Còn phương pháp kê khai là phương pháp khai thuế, tính thuế theo tỷ lệ trên doanh thu thực tế phát sinh theo kỳ, tháng hoặc quý.
Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển, khi phương pháp quản lý thuế đang thực hiện theo cơ chế tự khai tự nộp, chính sách thuế khoán đã bộc lộ nhiều hạn chế như thiếu công bằng, dễ thất thu ngân sách nhà nước, không thúc đẩy tính minh bạch và không còn phù hợp trong bối cảnh nền kinh tế số, xu hướng chuyển đổi sang mô hình kinh doanh bài bản.
“Ngành Thuế luôn đồng hành, hỗ trợ hộ kinh doanh để từng bước khuyến khích chuyển đổi thành doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tiếp cận đầy đủ các chính sách hỗ trợ của nhà nước. Việc khai thuế, nộp thuế điện tử, bỏ hình thức thuế khoán…, chính là nền tảng pháp lý và công cụ minh bạch giúp hộ kinh doanh phát triển lớn mạnh, từng bước tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng và nền kinh tế số” - Cục trưởng Cục Thuế Mai Xuân Thành.
Thực hiện Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị, ngành Thuế đang xây dựng Đề án hoàn thiện chính sách, phương pháp quản lý thuế đối với hộ kinh doanh khi xóa bỏ hình thức thuế khoán. Cục trưởng Cục Thuế Mai Xuân Thành cho rằng, chủ trương xóa bỏ hình thức thuế khoán là một bước chuyển lớn trong quản lý thuế đối với khu vực kinh tế hộ cá thể. Điều này cũng thể hiện quyết tâm của ngành Thuế trong hiện đại hóa quản lý, đảm bảo công bằng, minh bạch và tạo động lực phát triển kinh tế tư nhân.
Do đó, việc ban hành các chính sách thuế rõ ràng, công khai và nhất quán, cùng với việc áp dụng công nghệ trong kê khai, nộp thuế, tra cứu nghĩa vụ thuế, đang từng bước gỡ bỏ các rào cản về thủ tục và tâm lý cho hộ kinh doanh. Mỗi bước cải cách của ngành Thuế là một bước tiến trong việc lấy người nộp thuế làm trung tâm phục vụ. Khi người nộp thuế cảm thấy minh bạch, thuận tiện, hộ kinh doanh sẽ chủ động tuân thủ và có thêm động lực để phát triển.
Hướng tới mục tiêu thay thế hoàn toàn phương pháp khoán
Đại diện Ban Nghiệp vụ thuế (Cục Thuế) cho biết, Đề án hoàn thiện chính sách, phương pháp quản lý thuế đối với hộ kinh doanh khi xóa bỏ hình thức thuế khoán theo Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân được xây dựng dựa trên 5 nhóm giải pháp trọng tâm, hướng tới mục tiêu thay thế hoàn toàn phương pháp khoán bằng cơ chế người nộp thuế tự kê khai, tự nộp thuế theo doanh thu thực tế.
Các nhóm giải pháp gồm: rà soát, hoàn thiện chính sách pháp luật liên quan đến hộ kinh doanh; hoàn thiện phương pháp quản lý thuế hiện đại, thay thế phương pháp thuế khoán, chuyển sang phương pháp kê khai, người nộp thuế tự khai, tự nộp thuế; tăng cường ứng dụng công nghệ số, hóa đơn điện tử, phát triển các nền tảng số dùng chung; hỗ trợ, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi mô hình phù hợp; nâng cao năng lực tổ chức thực hiện của cơ quan thuế và tăng cường phối hợp với chính quyền địa phương.
Theo ông Mai Xuân Thành, ngành Thuế không chỉ thực hiện chức năng quản lý, mà còn giữ vai trò đồng hành, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hộ kinh doanh trong quá trình chuyển đổi và tuân thủ nghĩa vụ thuế. Theo đó, mọi chính sách cải cách thuế đều phải xuất phát từ lợi ích của người nộp thuế, tạo động lực để hộ kinh doanh phát triển bền vững, đóng góp tích cực cho ngân sách, đồng thời lan tỏa tinh thần tuân thủ pháp luật trong toàn xã hội./.
5 lợi ích nộp thuế theo phương pháp kê khai
Thứ nhất, nâng cao tính minh bạch và chuyên nghiệp hơn. Việc chuyển sang nộp thuế theo phương pháp kê khai giúp hộ kinh doanh hoạt động minh bạch và chuyên nghiệp hơn. Hộ kinh doanh sẽ thực hiện kê khai thuế hàng tháng hoặc hàng quý dựa trên sổ sách kế toán, hóa đơn và chứng từ rõ ràng. Điều này giúp việc ghi nhận doanh thu và chi phí được chính xác, tuân thủ đúng quy định của pháp luật về kế toán và thuế. Đồng thời việc sử dụng hóa đơn điện tử khi chuyển sang phương pháp kê khai cũng mang lại nhiều lợi ích, như giúp tăng uy tín với khách hàng trong môi trường kinh doanh hiện đại, góp phần hạn chế rủi ro liên quan đến pháp lý cũng như trong công tác quản lý thuế.
Thứ hai, hạn chế rủi ro bị ấn định thuế. Hộ kinh doanh đứng ở thế chủ động trong việc nộp thuế khi được chủ động tự kê khai, tự xác định số thuế phải nộp không bị ảnh hưởng bởi doanh thu của năm trước và mức khoán do cơ quan thuế xác định. Nếu trong năm hộ kinh doanh có gặp khó khăn do thị trường thì được kê khai theo đúng thực tế phát sinh mà không bị ấn định thuế như trước.
Thứ ba, việc kê khai đầy đủ sổ sách giúp hộ kinh doanh dễ dàng chứng minh doanh thu, chi phí và lợi nhuận một cách rõ ràng với ngân hàng hoặc đối tác. Nhờ đó, quá trình vay vốn hoặc huy động thêm nguồn đầu tư trở nên thuận lợi hơn. Đồng thời, việc tuân thủ các yêu cầu về kế toán cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng chi nhánh hoặc tìm kiếm, hợp tác với các đối tác kinh doanh mới.
Thứ tư, giúp thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi mô hình. Việc chuyển sang phương pháp kê khai doanh thu, sử dụng hóa đơn, quản lý dòng tiền qua tài khoản..., cũng là một hình thức tạo áp lực tích cực để hộ kinh doanh nâng cấp năng lực quản trị, chuyên nghiệp hóa hoạt động, và tiến tới chuyển đổi thành doanh nghiệp chính quy. Từ đó, họ có thể tiếp cận nguồn vốn, tham gia các chuỗi cung ứng lớn, và phát triển bền vững hơn.
Thứ năm, tạo nền tảng cho hoạch định chính sách kinh tế tư nhân dựa trên dữ liệu thực. Khi chuyển sang cơ chế tính thuế theo kê khai doanh thu thực tế và hóa đơn điện tử, cơ quan quản lý mới nhìn rõ được bức tranh toàn diện, chính xác và minh bạch về hoạt động kinh doanh của khu vực này. Từ đó, nhà nước mới có đủ căn cứ để xây dựng các chính sách hỗ trợ, phát triển kinh tế tư nhân một cách thực chất, thay vì chỉ dựa trên ước tính, cảm tính hay mô hình hóa thiếu dữ liệu đầu vào.
Văn Tuấn