Trong năm 2025, Ban quản lý Vườn quốc gia Xuân Liên đã phối hợp với Trung tâm Cứu hộ động vật hoang dã Hà Nội (HWRC) Trung tâm Bảo tồn thiên nhiên và Phát triển (CCD) đã tổ chức tái thả 23 cá thể thuộc nhiều loài như cu li nhỏ, khỉ mốc, khỉ mặt đỏ, khỉ đuôi lợn, khỉ vàng, cầy vòi mốc, rùa núi vàng, rắn sọc dưa và rắn hổ mang Trung Quốc trở về môi trường sống tự nhiên tại Vườn quốc gia Xuân Liên.
Rùa núi vàng được thả về tự nhiên sau khi được giải cứu
Trong đó, có một số loài động vật được nhóm chuyên gia sử dụng phương pháp Tái thả mềm – sử dụng chuồng bán hoang dã đặt trong rừng để các cá thể làm quen môi trường trước khi tự do hoàn toàn (áp dụng với Cu li nhỏ, Khỉ mốc, Cầy vòi mốc).
Để theo dõi sau tái thả các cá thể động vật được gắn vòng cổ có thiết bị định vị (M1640, M2940, M2920) hoặc thiết bị dán (R2020) để thuận tiện theo dõi. Kết quả sau tái thả mang lại nhiều tín hiệu khả quan.
Không ít động vật hoang dã bii nuôi nhốt lâu ngày cần thời gian để tái hòa nhập tự nhiên
Cu li nhỏ, rời chuồng vào ban đêm, di chuyển tốt, hoạt động bình thường, không có dấu hiệu căng thẳng. Khỉ mốc giữ nguyên cấu trúc đàn, biết tìm kiếm thức ăn trong tự nhiên.
Cầy vòi mốc, hoạt động vào ban đêm, ăn uống bình thường. Rùa núi vàng và rùa đất có cá thể được tìm thấy gần khu vực thả, có thể môi trường vẫn tái thả vẫn chưa phù hợp với đặc tính của rùa cạn.
Tạo bước đệm để động vật hoang dã trở lại ngôi nhà tự nhiên
Trao đổi với PV, ông Phạm Anh Tám, Giám đốc Vườn quốc gia Xuân Liên cho biết: Thực tế cho thấy, có những trường hợp đáng lo ngại như cá thể khỉ mặt đỏ con có hành vi bất thường (bám người, không leo trèo), hay khỉ đuôi lợn có xu hướng xin ăn và ít vận động. Đây là hậu quả của quá trình bị nuôi nhốt lâu ngày, cần thêm thời gian để tái hòa nhập tự nhiên.
Trong thời gian tới Vườn quốc gia Xuân Liên sẽ tiếp tục phối hợp với Trung tâm CCD theo dõi, giám sát và đánh giá thêm kết quả của đợt tái thả. Tiếp tục phối hợp với các trung tâm cứu hộ trên cả nước như Trung tâm HWRC tổ chức cứu hộ và tái thả các loài động vật vào tự nhiên tại Vườn quốc gia Xuân Liên.
Cầy vằn bắc kiếm ăn về đêm tại Vườn quốc gia Xuân Liên
“Ngoài công tác cứu hộ, tạo môi trường tốt nhất cho các loài động vật tái hòa nhập với tự nhiên, chúng tôi đang tích cực phối hợp với chính quyền địa phương, cơ quan chức năng tuyên truyền vận động người dân không săn bắt, nuôi nhốt, mua bán, vận chuyển động vật hoang dã. Trường hợp của anh nông dân Thành ở Nghệ An gây xôn xao cộng đồng mạng về nuôi, bán gà lôi những ngày qua là một ví dụ”, ông Tám nói.
Được biết, Vườn Quốc gia Xuân Liên có tổng diện tích quản lý hơn 25.000 ha, trong đó trên 23.800 ha là đất rừng đặc dụng. Vườn Quốc gia Xuân Liên nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa hai vùng sinh thái Tây Bắc và Bắc Trung Bộ. Vị trí địa lý đặc biệt này đã tạo nên một hệ sinh thái đa dạng, phong phú, trở thành trung tâm bảo tồn quan trọng của khu vực.
Theo các cuộc điều tra của các nhà khoa học, khu vực này ghi nhận 1.228 loài thực vật bậc cao thuộc 659 chi, 181 họ, trong đó có 56 loài thực vật quý hiếm, với 11 loài thuộc danh mục của IUCN và 39 loài nằm trong Sách Đỏ Việt Nam. Về động vật, vườn có 1.811 loài thuộc 241 họ, 46 bộ, với 94 loài nguy cấp, quý hiếm, bao gồm 34 loài đe dọa toàn cầu theo Danh lục Đỏ IUCN và 56 loài trong Sách Đỏ Việt Nam.
Điểm nhấn đặc biệt của Vườn Quốc gia Xuân Liên là sự tồn tại của loài Mang Roosevelt (hay còn gọi là Mang Pù Hoạt), một loài từng được cho là đã tuyệt chủng trên thế giới gần 100 năm, kể từ năm 1929.
Việc phát hiện và xác định loài này qua phân tích ADN tại Xuân Liên đánh dấu một bước ngoặt trong công tác bảo tồn, biến loài Mang Roosevelt trở thành loài đặc hữu của khu vực này. Ngoài ra, vườn còn là nơi phân bố lớn nhất thế giới của loài vượn đen má trắng với 62 đàn, khoảng 200 cá thể, và là nơi sinh sống của hơn 224 cá thể voọc xám, cùng nhiều loài linh trưởng khác như khỉ và culi.
Bên cạnh đó, Xuân Liên còn ghi nhận 10 loài mới cho khoa học, trong đó có 4 loài đặc hữu riêng của khu vực (sồi Xuân Liên, mộc hương Xuân Liên, thiên lý Xuân Liên, thượng tiễn Xuân Liên) và 6 loài đặc hữu của Việt Nam và khu vực.
Vườn cũng sở hữu hơn 5.000 ha rừng nguyên sinh với nhiều cây cổ thụ hàng trăm đến hàng ngàn năm tuổi, nổi bật là các loài pơ mu, sa mộc dầu, vù hương, sến mật, re gừng, táu mặt quỷ, dổi xanh. Đặc biệt, hai cây pơ mu và sa mộc dầu trên 1.500 năm tuổi đã được công nhận là Cây Di sản Việt Nam.
Vườn Quốc gia Xuân Liên đóng vai trò quan trọng trong việc phòng hộ đầu nguồn cho hệ thống thủy lợi - thủy điện Cửa Đạt. Với hơn 3.000 ha mặt nước lòng hồ nằm trong khu vực vườn, lưu lượng nước đạt trên 1,5 tỷ m³, hệ thống này cung cấp nước tưới cho 86.000 ha đất nông nghiệp và nước sinh hoạt, công nghiệp cho vùng hạ du tỉnh Thanh Hóa.
Thanh Phương