Cá 'lịch củ': Tiềm năng và bảo tồn

Cá 'lịch củ': Tiềm năng và bảo tồn
3 giờ trướcBài gốc
Cá lịch mỡ.
Khám phá loài cá “lịch củ”
Dọc theo vùng ven biển và cửa sông từ Vũng Tàu đến Bến Tre, khu vực có hệ sinh thái đa dạng như rừng ngập mặn, bãi bồi và cửa sông lớn, tồn tại một nhóm cá đặc biệt mà ngư dân địa phương gọi là “lịch củ”.
Nhóm cá này thường sống vùi mình dưới đáy, có giá trị thương mại cao, với mức giá bán dao động 500 - 700 nghìn đồng/kg. Mặc dù đóng vai trò quan trọng trong sinh thái và sinh kế ven biển, thông tin khoa học về thành phần loài, đặc điểm sinh học và hiện trạng nguồn lợi của chúng còn rất hạn chế.
Để làm rõ các vấn đề này, TS Võ Văn Quang cùng nhóm nghiên cứu tại Viện Hải dương học - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã triển khai đề tài: “Đặc điểm sinh học và hiện trạng nguồn lợi cá ‘lịch củ’ họ Cá chình rắn (Ophichthidae) ở vùng ven biển và cửa sông từ Vũng Tàu đến Bến Tre, đồng thời đề xuất giải pháp phát triển bền vững nguồn lợi”.
Nhóm nghiên cứu đã thu thập mẫu cá thuộc hai nhóm khác nhau, trong đó nhóm “lịch củ” là đối tượng chính. Mẫu cá được lấy từ các tàu khai thác sử dụng ngư cụ phổ biến như giã cào, te, lồng bẫy ở 5 địa điểm chính, bao gồm cảng cá và điểm lên cá.
Ngoài ra, khảo sát tại 9 trạm ngoài khơi sử dụng lưới giã cào giúp mở rộng phạm vi thu mẫu. Việc thu thập cá nhệch gặp khó khăn do tần suất xuất hiện thấp và giá trị thương mại cao nên nhiều mẫu bị ngư dân giữ lại để tiêu thụ.
Phát hiện các loài cá mới
Nhóm nghiên cứu xác định 5 loài tiêu biểu thuộc nhóm “lịch củ”, trong đó có hai loài mới được mô tả gồm Cá lịch mỡ và Cá lịch dài thân đen. Ba loài còn lại gồm Cá chình rắn vây cao, Cá chình rắn 2 hàng răng và Cá nhệch răng hạt.
Đồng thời, nhóm cũng công bố hai loài cá mới thuộc họ Synaphobranchidae sống đáy sâu, nổi bật với thân dài chiếm khoảng 50% chiều dài đầu, cấu trúc vây và răng đặc trưng, cùng 70 - 76 lỗ đường bên và 118 - 124 đốt sống.
Đặc biệt, lần đầu tiên tại Việt Nam ghi nhận loài Cá chình Meadia roseni Mok, Lee et Chang, 1991 (họ Synaphobranchidae) - loài cá sống ở vùng nước sâu hiếm gặp, trước đây chỉ được biết đến tại một số vùng biển ở Đài Loan (Trung Quốc).
Trong số các loài phát hiện, Cá lịch mỡ nổi bật về giá trị sinh thái và kinh tế. Loài này có thể phát triển chiều dài tối đa tới 104,6 cm và thành thục sinh sản khi đạt chiều dài trên 68,5 cm.
Cá sinh sản quanh năm nhưng tập trung mạnh vào hai giai đoạn tháng 2 - 3 và tháng 6 - 7. Một cá thể cái trung bình đẻ hơn 31.000 trứng, tương đương khoảng 308 trứng trên mỗi gam trọng lượng. Thức ăn chính là các loài giáp xác như dã tràng, tôm nhỏ.
Hiện cá “lịch củ” được đánh bắt chủ yếu bằng các ngư cụ truyền thống như cào đôi, giã cào đơn, lưới đáy, lưới te, bẫy rập và phương pháp đào hang. Trong đó, nghề giã cào chiếm khoảng 2,7% tổng sản lượng khai thác khu vực. Ước tính hàng năm vùng biển này cung cấp từ 150 - 180 tấn cá lịch củ, với trữ lượng ước đoán khoảng 300 - 350 tấn.
Nhóm nghiên cứu đề xuất các giải pháp quản lý bảo vệ bền vững nguồn lợi cá “lịch củ”. Đối với Cá lịch mỡ, khuyến nghị chỉ khai thác khi cá đạt chiều dài trên 68,5 cm và sử dụng ngư cụ có mắt lưới lớn hơn 20 mm để tránh đánh bắt cá non.
Đặc biệt, cần hạn chế hoặc cấm khai thác bằng giã cào tại vùng biển nông dưới 10 m, nơi cá thường sinh sống và sinh sản. Đồng thời, ngừng khai thác tại cửa sông trong các tháng sinh sản cao điểm (tháng 3 và tháng 9) nhằm tạo điều kiện cho cá tái tạo quần thể. Việc tăng cường tuần tra, kiểm soát hoạt động tàu cá ven bờ cũng được nhấn mạnh để giảm áp lực khai thác quá mức.
Kết quả nghiên cứu góp phần mở rộng hiểu biết về đa dạng sinh học vùng biển Việt Nam, đồng thời cung cấp cơ sở khoa học quan trọng cho công tác bảo vệ và phát triển bền vững nguồn lợi cá “lịch củ”.
Nhật Phong
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/ca-lich-cu-tiem-nang-va-bao-ton-post744156.html