Bài 1: Dấu ấn thiêng liêng, tầm vóc thời đại
Thời gian càng lùi xa, song dấu ấn thiêng liêng thời đại lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam càng thêm sừng sững như cột mốc vĩ đại nhất trong thế kỷ XX - đấu tranh giải phóng dân tộc, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.
Dấu ấn lịch sử đầu tiên, có tính bao trùm mà cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam tạc vào lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới; đó là sự thay đổi thân phận lịch sử của một dân tộc nhỏ bé yếu hèn, là thuộc địa của chủ nghĩa thực dân toàn cầu, trở thành một dân tộc có quyền hưởng tự do, độc lập, bình đẳng, thậm chí bình đẳng trước những kẻ từng nhân danh “khai hóa văn minh nhân loại”. Nếu không có Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và không có Tuyên ngôn Độc lập (ngày 2-9-1945), dân tộc Việt Nam sẽ vẫn chỉ là một thuộc địa của chủ nghĩa thực dân. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Việt Nam thật tự hào, bởi may mắn có được một chính đảng vô sản, do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện, nên đủ trí tuệ, bản lĩnh, đoán định thời cơ, vận động cách mạng hướng tới mục tiêu tối thượng, tuyên truyền, vận động, giác ngộ cách mạng cho quần chúng yêu nước đi theo Đảng.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Trong thời điểm chín muồi lịch sử, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Trung ương Đảng ra quyết định lịch sử: Phát động toàn dân “đem sức ta tự giải phóng cho ta”. Mệnh lệnh lịch sử phát ra vào thời điểm “thời cơ ngàn năm có một đã chín muồi”, với quyết tâm chính trị sắt đá không gì cản nổi và càng không được phép chần chừ “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập”; sức mạnh chính trị từ Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh tựa như thần khí giúp cho dân tộc Việt Nam vụt đứng lên với tư thế lịch sử mang tầm thời đại; hoàn toàn có quyền tự quyết chính trị và tự quyết lịch sử phát triển của mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn có quyền tự hào rằng, dù không phải là một chính đảng ra đời sớm, dù số lượng đảng viên không đông, dù luôn phải đối mặt với muôn vàn thử thách lịch sử tồn vong do chính sách khủng bố trắng của thực dân, nhưng chỉ sau 15 năm ra đời và tôi rèn trong máu lửa đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã đưa nhân dân ta bước lên vũ đài chính trị cao nhất, tạo bước tiến nhảy vọt theo xu thế thời đại. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 chứng tỏ cho thế giới biết rằng, dân tộc Việt Nam đủ bản lĩnh, đủ tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường hướng tới các giá trị phổ quát nhân loại: Độc lập, hòa bình, tự do, bình đẳng, hạnh phúc, nhân ái.
Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 là kết tinh của trí tuệ chính trị tầm vóc lớn lao của một lãnh tụ vĩ đại, có sự kế thừa, phát huy truyền thống kiên trung của một dân tộc giàu lòng yêu nước, không cam chịu làm nô lệ cho ngoại bang. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã trực tiếp để lại dấu ấn lịch sử chính trị trong bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử của Việt Nam, do lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo và trịnh trọng tuyên bố với thế giới chỉ trong vòng 2 tuần lễ sau khi giành chính quyền tại Hà Nội. Sự hưởng ứng tuyệt đối của quần chúng cách mạng theo cờ Đảng, trong tổ chức Mặt trận Việt Minh, của các tầng lớp quần chúng yêu nước đã đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền thực sự là nguồn cảm hứng cách mạng bất diệt, hun đúc nên “thiên sử hùng văn” trong Tuyên ngôn Độc lập.
Lời thề độc lập mà Hồ Chủ tịch đanh thép kết lại trong câu cuối của Tuyên ngôn Độc lập chính là hồn cốt văn hóa tự chủ, là sự tiếp biến thần khí của những bản thiên anh hùng ca bất tử ra đời ở những thời đại lịch sử giàu chất sử thi dân tộc Đại Việt - Việt Nam trước đó, như: “Nam quốc sơn hà” (thời Lý), của “Hịch tướng sĩ” (thời Trần), của “Đại cáo bình Ngô” (thời Lê), của “Hịch xuất quân” (thời Tây Sơn). Như vậy, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 không tự nhiên mà có, không đúng như luận điệu của sử gia tư sản và các loa tuyên truyền xuyên tạc coi “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là sự ăn may”. Đây là bóng hào quang lịch sử dân tộc được tỏa sáng rực rỡ dưới thời đại Hồ Chí Minh. Đó là sự hội tụ bởi sức mạnh thời đại thông qua ánh sáng soi đường bởi chủ nghĩa Mác - Lênin, được cổ vũ bởi Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, thông qua cầu nối lịch sử lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là hiện thân triết lý “dân là gốc” đã được kiểm định trong suốt chiều dài hàng ngàn năm dựng nước đi đôi với giữ nước. Dân là tập hợp số đông “bốn phương manh lệ” trong khởi nghĩa Lam Sơn, được mở rộng bởi tư tưởng quốc tế của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc “tứ hải giai huynh đệ”, coi “người cùng khổ” trên thế giới đều là đồng chí, anh em, từ đó gắn kết cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ chặt chẽ khăng khít với cách mạng thế giới. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam để lại dấu ấn lịch sử vượt ngoài khuôn khổ một dân tộc, quốc gia, một đảng phái chính trị; đó thực sự là dấu ấn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hòa quyện trong chủ nghĩa yêu nước chân chính.
Ngay sau khi Tuyên ngôn Độc lập, ngày 3-9-1945, Chính phủ cách mạng lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, đã họp ra quyết sách mang tính dân chủ chưa từng có trong lịch sử Việt Nam dưới thời phong kiến, dưới chế độ thực dân phong kiến: “Mở phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính, bài trừ các tệ nạn do chế độ thực dân để lại. Xóa bỏ các thứ thuế vô lý, trước mắt là thuế thân, thuế chợ, thuế đò; tuyệt đối cấm hút thuốc phiện. Tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết”. Đối chiếu với “Bản án chế độ thực dân Pháp” do Nguyễn Ái Quốc viết trước đó hơn 20 năm thì quả là cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã viết vào lịch sử thế giới một chương mới về bảo đảm quyền con người, trong đó tự do, bình đẳng là mẫu số chung. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (xuất bản năm 1927), Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ, các cuộc cách mạng xã hội diễn ra ở Anh, Pháp, Mỹ đều không triệt để, mặc dù những lời hoa mỹ mở đầu Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Pháp rất có sức cuốn hút, song con đường cách mạng của Việt Nam lại hoàn toàn không bị nô dịch bởi tư tưởng tư sản. Bản chất của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới, nó vừa làm nhiệm vụ lật đổ chế độ phong kiến, đồng thời phá tan xiềng xích nô lệ thực dân. Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam là thông điệp lịch sử về tinh thần phản kháng triệt để nhất đối với chủ nghĩa tư bản.
Cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên (ngày 6-1-1946) là nốt thăng trong bản giao hưởng Mùa thu vàng tháng Tám lịch sử, bởi lần đầu tiên trong lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam (cũng là nước đầu tiên trong lịch sử các quốc gia Đông Nam Á) người dân được thực thi quyền tự quyết chính trị. Chính vì vậy, toàn thể dân tộc Việt Nam đã sát cánh cùng nhau thực hiện một cách son sắt lời thề độc lập, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Bác Hồ. Bản hùng ca Điện Biên Phủ (ngày 7-5-1954) và Đại thắng mùa Xuân ngày 30-4-1975 được kế thừa, phát huy trên nền tảng của những ngày thu lịch sử năm 1945.
Chặng đường 40 năm đổi mới mang lại những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử cũng là sự tiếp biến tinh thần “đem sức ta tự cứu lấy ta” trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Sau 80 năm đất nước vững bước thực hiện lời thề độc lập, kiến tạo chế độ mới, bảo vệ vững chắc nền độc lập, đóng góp quan trọng vào cách mạng thế giới, giờ đây Việt Nam bắt đầu khởi phát bứt tốc về đích mục tiêu thiên niên kỷ, đưa Việt Nam tới đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc năm châu. Nhân lõi của kỷ nguyên mới là khẳng định thành công mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa, gắn giá trị phát triển trường tồn của dân tộc Việt Nam với hòa bình, hiện đại, văn minh, tiến bộ, công bằng, hạnh phúc của nhân loại. Đó là điểm tựa bất biến từ lịch sử, cho tương lai tươi sáng dân tộc.
Thủ đô Hà Nội, nơi hồn thiêng sông núi, rất vinh dự tự hào vì đã tiên phong, gương mẫu đi đầu trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945; tiếp tục lập nhiều kỳ tích trong 80 năm dựng xây chế độ dân chủ nhân dân. Trên tiền đề hào quang lịch sử, Thủ đô Hà Nội chắc chắn còn tỏa sáng thêm nhiều giá trị truyền thống văn hiến, anh hùng, hào hoa, làm hồn cốt tạo nên nhiều giá trị văn hóa lịch sử chính trị trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
(Còn nữa)
PGS.TS Trần Viết Lưu