Cắt giảm thủ tục, nhưng không buông lỏng kiểm soát
Theo báo cáo của Chính phủ, các nội dung sửa đổi Luật Đầu tư lần này được xây dựng trên tinh thần chuyển mạnh từ “quản lý” sang “kiến tạo phát triển”, tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, đồng thời vẫn bảo đảm yêu cầu kiểm soát rủi ro, an ninh kinh tế và lợi ích quốc gia.
Luật tiếp tục khẳng định nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, trừ các ngành, nghề thuộc Danh mục hạn chế tiếp cận thị trường, đồng thời làm rõ hơn các điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài theo hướng minh bạch, cụ thể và dễ dự đoán hơn.
Luật Đầu tư (sửa đổi) ưu tiên nhóm ngành công nghệ cao, kinh tế số và kinh tế xanh. Ảnh: TL
Một trong những điểm mới nổi bật của Luật Đầu tư (sửa đổi) là cho phép nhà đầu tư nước ngoài được thành lập tổ chức kinh tế trước khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Đây được coi là một cải cách mang tính căn bản về thủ tục, nhằm rút ngắn thời gian gia nhập thị trường, giảm chi phí tuân thủ và nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực. Quy định này có ý nghĩa lớn, bởi các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia, coi tốc độ và tính dự đoán của thủ tục là yếu tố then chốt khi lựa chọn địa điểm đầu tư.
Luật Đầu tư (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày 1/3/2026. Riêng nội dung Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2026. Luật không chỉ là một bước hoàn thiện khung pháp lý, mà còn phản ánh sự chuyển dịch tư duy thu hút đầu tư của Việt Nam, từ số lượng sang chất lượng, từ ưu đãi đại trà sang ưu đãi có điều kiện, gắn với mục tiêu phát triển nhanh nhưng bền vững trong giai đoạn tới.
Tuy nhiên, để bảo đảm quản lý nhà nước, Luật Đầu tư (sửa đổi) vẫn giữ yêu cầu thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với dự án của nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, giao Chính phủ quy định chi tiết trách nhiệm báo cáo, đăng ký ngành nghề và các biện pháp kiểm soát cần thiết nhằm bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự kinh tế. Cách thiết kế này thể hiện tư duy quản lý đã chuyển từ tiền kiểm nặng về thủ tục sang kết hợp giữa thông thoáng thủ tục và tăng cường hậu kiểm, phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng vẫn giữ những quy định cần thiết để kiểm soát các lĩnh vực nhạy cảm.
Mở rộng không gian kinh doanh cho nhà đầu tư
Luật Đầu tư (sửa đổi) cũng có thay đổi lớn trong Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, với việc cắt giảm 38 ngành, nghề và sửa đổi, thu hẹp phạm vi của 20 ngành, nghề khác. Việc rà soát này được thực hiện trên nguyên tắc chỉ giữ lại những ngành, nghề thực sự cần tiền kiểm vì lý do quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc sức khỏe cộng đồng; các lĩnh vực có thể quản lý bằng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được chuyển dần sang cơ chế hậu kiểm.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng, sau khi Luật Đầu tư (sửa đổi) được thông qua, Chính phủ giao Bộ Tài chính phối hợp với các bộ, ngành để rà soát, tiếp tục cắt giảm, sửa đổi các điều kiện kinh doanh, chuyển mạnh sang cơ chế hậu kiểm. Việc quản lý sẽ thông qua kiểm soát bằng tiêu chuẩn, quy chuẩn, bảo đảm thực hiện đầy đủ, nhất quán quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp.
Đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, động thái này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi nhiều rào cản gia nhập thị trường đã được gỡ bỏ. Việc thu hẹp danh mục giúp giảm đáng kể rủi ro pháp lý và chi phí tuân thủ, nhất là trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại, logistics, công nghệ thông tin và các ngành kinh tế mới.
Đồng thời, việc chuyển mạnh sang quản lý bằng quy chuẩn, tiêu chuẩn và hậu kiểm cũng giúp nâng cao tính minh bạch, nhất quán trong thực thi chính sách, vốn là mối quan tâm lớn của cộng đồng doanh nghiệp FDI trong nhiều năm qua. Đây cũng là thông điệp rõ ràng cho thấy Việt Nam đang chủ động thích ứng với bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI ngày càng gay gắt trong khu vực.
Định vị lại chính sách ưu đãi đầu tư
Cùng với việc cải cách thủ tục và giảm điều kiện kinh doanh để “mở rộng cửa” cho dòng vốn đầu tư, Luật Đầu tư (sửa đổi) cũng sửa đổi, bổ sung chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư để định hướng dòng vốn đi vào những lĩnh vực mà Việt Nam thực sự cần.
Theo quy định mới, ưu đãi đầu tư tiếp tục được áp dụng đối với dự án thuộc ngành, nghề ưu đãi, địa bàn ưu đãi hoặc dự án có quy mô lớn, có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, Luật nhấn mạnh hơn đến tính chiến lược và hiệu quả của ưu đãi, gắn ưu đãi với các mục tiêu dài hạn như đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực công nghệ.
Luật cũng tập trung hơn vào các hình thức hỗ trợ đầu tư ngoài thuế hay đất đai, như hỗ trợ hạ tầng, đào tạo nhân lực, khoa học - công nghệ, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ chuyển đổi xanh và giảm phát thải. Điều này cho thấy, chính sách ưu đãi đang được điều chỉnh từ việc thu hút vốn theo số lượng đơn thuần sang chọn lọc nhà đầu tư có năng lực, có cam kết gắn bó và tạo giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế.
Ngoài ra, Luật cũng mở rộng đối tượng áp dụng thủ tục đầu tư đặc biệt (luồng xanh) để cho phép các dự án đầu tư tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghệ số tập trung, khu thương mại tự do và khu chức năng trong khu kinh tế được thực hiện thủ tục đầu tư đặc biệt (luồng xanh) mà không hạn chế về ngành, lĩnh vực, trừ một số dự án lớn, quan trọng như sân bay, cảng biển…
Những quy định nhằm đơn giản hóa thủ tục, mở rộng quyền tiếp cận thị trường được đánh giá sẽ giúp Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư quốc tế. Trong khi đó, việc siết chặt tiêu chí ưu đãi và tăng cường hậu kiểm là cơ sở để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, hạn chế các dự án công nghệ thấp, tiêu tốn tài nguyên hoặc gây rủi ro môi trường.
Định hướng dòng vốn vào nhiều lĩnh vực ưu tiên
Theo đại biểu Nguyễn Văn Huy (đoàn Hưng Yên), cách thiết kế quy định ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư theo hướng chỉ đưa vào những vấn đề mang tính khung nguyên tắc thuộc thẩm quyền của Quốc hội là phù hợp với định hướng mới về xây dựng luật, tạo dư địa để Chính phủ chủ động xác định ngành nghề ưu đãi theo từng thời kỳ và để các bộ, ngành rà soát thu hẹp danh mục ưu đãi, bảo đảm trọng tâm, trọng điểm.
Luật cũng mở rộng đối tượng và đa dạng hóa hình thức ưu đãi hỗ trợ, bổ sung nhiều chính sách phù hợp với xu thế xanh, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, qua đó nâng cao cái tính minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả thực thi. Đây là điểm tích cực, góp phần làm tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư và định hướng dòng vốn vào nhiều lĩnh vực ưu tiên quốc gia.
Ngoài ra, Luật đã mở rộng đáng kể các hình thức hỗ trợ, bổ sung các cơ chế hỗ trợ nghiên cứu phát triển, chuyển đổi xanh, giảm phát thải, thích ứng biến đổi khí hậu và chuyển đổi số. "Đây là các chính sách phù hợp với xu thế toàn cầu, có ý nghĩa nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy phát triển bền vững" - đại biểu Nguyễn Văn Huy nhận xét.
Hoàng Yến