Cải cách chính sách thuế nhằm thực hiện các mục tiêu ưu tiên chiến lược

Cải cách chính sách thuế nhằm thực hiện các mục tiêu ưu tiên chiến lược
5 giờ trướcBài gốc
Quang cảnh phiên thảo luận.
Chính sách thuế của Việt Nam liên tục được hoàn thiện
Hiện nay, hệ thống chính sách thuế của Việt Nam gồm 1o sắc thuế: Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT); Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB); Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN); Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN); Luật Thuế tài nguyên; Luật Thuế bảo vệ môi trường (BVMT); Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp; Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; Luật Phí và lệ phí.
Tại phiên thảo luận số 2 trong chương trình đối thoại chính sách tài chính Việt Nam - New Zealand năm 2025 chiều 6/8, ông Trương Bá Tuấn - Phó Cục trưởng Cục Quản lý giám sát chính sách thuế, phí, lệ phí (Bộ Tài chính Việt Nam) cho biết, trong giai đoạn vừa qua, hệ thống chính sách thuế của Việt Nam liên tục được hoàn thiện nhằm đáp ứng các yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội đặt ra trong từng thời kỳ và xu hướng phát triển cũng như thông lệ quốc tế.
Việc sửa đổi các chính sách thuế đã bám sát được các yêu cầu và mục tiêu đề ra. Theo đó, mục tiêu hướng đến là đảm bảo nguồn thu bền vững cho ngân sách nhà nước; chính sách thuế được áp dụng bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế.
Cải cách hệ thống thuế cũng hướng đến khuyến khích đầu tư, tạo việc làm và thực hiện các mục tiêu ưu tiên chiến lược của đất nước (thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển bền vững…) thông qua các chính sách ưu đãi thuế phù hợp. Đồng thời, hạn chế việc sản xuất, tiêu dùng các loại hàng hóa, dịch vụ có hại, gây tác động bất lợi tới sức khỏe người dân và môi trường; thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ cho người nộp thuế.
Hiện nay, hệ thống chính sách thuế của Việt Nam gồm 1o sắc thuế: Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT); Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB); Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN); Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN); Luật Thuế tài nguyên; Luật Thuế bảo vệ môi trường (BVMT); Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp; Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; Luật Phí và lệ phí.
Mỗi luật thuế đều quy định cụ thể về phạm vi điều chỉnh, đối tượng chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ, phương pháp tính thuế, thuế suất, ưu đãi thuế...
Chia sẻ về chính sách thuế nhằm ứng phó với việc áp dụng Trụ cột 2 về thuế tối thiểu toàn cầu trong khung khổ Diễn đàn BEPS, ông Tuấn thông tin, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Nghị quyết về việc áp dụng thuế TNDN bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu để áp dụng từ 01/01/2024 để quy định về việc thu thuế TNDN bổ sung cho các đối tượng chịu sự điều chỉnh của Trụ cột 2.
Nghị quyết này đã bổ sung quy định để áp dụng thuế TNDN bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn (QDMTT) đảm bảo phù hợp với các quy tắc theo hướng dẫn của OECD để thu thuế bổ sung đối với các doanh nghiệp thuộc đối tượng áp dụng của Thuế tối thiểu toàn cầu và đang được hưởng ưu đãi thuế TNDN ở Việt Nam (mức thuế suất thực tế thấp hơn 15%). Đồng thời, bổ sung quy định nộp bổ sung thuế đối với các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài thuộc đối tượng áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu theo nguyên tắc của Quy định Tổng hợp thu nhập chịu thuế tối thiểu (IIR).
Trong giai đoạn từ năm 2020 đến nay, trong bối cảnh ảnh hưởng của dịch COVID-19 và các biến động bất lợi của tình hình kinh tế thế giới, nhiều giải pháp miễn, giảm, gia hạn các khoản thuế, phí và lệ phí đã được Việt Nam triển khai trên diện rộng. Điển hình như gia hạn thời hạn nộp thuế đối với một số khoản thuế như thuế GTGT, thuế TNDN, thuế TNCN, thuế TTĐB.
Từ năm 2022 đến nay, Việt Nam cũng thực hiện chính sách giảm thuế GTGT trên diện rộng, cụ thể đã giảm từ 10% xuống còn 8% mức thuế đối với nhiều nhóm hàng hóa và dịch vụ thuộc diện áp dụng thuế suất thuế GTGT 10%.
Theo ông Trương Bá Tuấn, thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục trình cấp có thẩm quyền sửa luật thuế TNCN. Trong đó, sẽ có những biện pháp điều chỉnh tăng mức giảm trừ, đơn giản hóa cấu trúc biểu thuế, giảm thuế với nhân lực công nghệ cao; miễn thuế với cá nhân nắm giữ trái phiếu xanh, tín chỉ các bon để đạt mục tiêu bảo vệ môi trường. Cùng với đó là sửa thuế bảo vệ môi trường, thuế tài nguyên, đất đai…
Trong quá trình nghiên cứu, Bộ Tài chính coi trọng việc học hỏi kinh nghiệm các quốc gia phát triển nói chung và New Zealand nói riêng. Theo ông Tuấn, thuế là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến nhiều chủ thể, đối tượng nên việc xây dựng chính sách phù hợp có vai trò rất quan trọng.
Điều kiện, tiêu chí làm căn cứ áp dụng rất quan trọng
Chia sẻ kinh nghiệm của New Zealand, ông Stephen Bond - Cục trưởng Cục quản lý ngân sách (Bộ Ngân khố New Zealand) cho biết, hệ thống thuế của New Zealand thu được khoảng 34% GDP. Trong đó, phần lớn (32% trong số 34%) được thu bởi chính quyền trung ương; thuế tài sản của chính quyền địa phương khoảng 2% GDP.
Ông Stephen Bond - Cục trưởng Cục quản lý ngân sách (Bộ Ngân khố New Zealand) phát biểu thảo luận.
Thuế thu nhập và thuế tiêu dùng chiếm 94% tổng thu của nước này. Trong đó, thuế thu nhập có thang bậc lũy tiến với mức thuế suất cao nhất là 39% dành cho cá nhân; thuế suất thuế công ty là 28%. Không giống như chế độ thuế công ty “cổ điển”, thuế suất thuế thu nhập cá nhân là thuế suất “cuối
cùng” đối với thu nhập.
New Zealand thường áp dụng phương pháp đánh thuế “cơ sở rộng, thuế suất thấp”. Theo đó, New Zealand cố gắng giảm thiểu các khoản miễn trừ hoặc mức thuế suất thấp đặc biệt cho các ngành hoặc lĩnh vực cụ thể. Phương pháp này giúp giảm thiểu sự bóp méo do động cơ thuế về các quyết định làm việc, đầu tư và tiêu dùng; cho phép chính phủ đặt mức thuế suất thấp hơn mà vẫn đảm bảo thu đủ thuế.
Tuy nhiên, New Zealand có ưu đãi thuế cho Đầu tư R&D nhưng có hạn chế về các ưu đãi thuế khác đối với hành vi kinh tế hoặc lĩnh vực cụ thể và đánh thuế phần lớn thu nhập từ lãi vốn. Thuế này New Zealand áp dụng cho gần như tất cả hàng hóa và dịch vụ, với rất ít ngoại lệ. Mức thuế được áp dụng duy nhất là 15% và là mức thuế suất thấp thứ 6 trong OECD.
Thảo thuận về thu thuế với bất động sản, hai bên đều bày tỏ khó khăn trong xây dựng chính sách thuế với lĩnh vực này. Theo ông Stephen Bond, New Zealand sẽ đánh thuế cao hơn với đất đai, nhà ở, một số nơi đề xuất tăng thuế trên giá trị đất thay vì đánh thuế liên quan đến vốn đầu tư vào đất, nhưng hiện nay đa số đang đánh thuế lên vốn đầu tư vào đất. Ngoài ra, New Zealand tập trung quy hoạch đất đai hoặc xây dựng nhằm đảm bảo dễ xây dựng nhà mới. Chính sách này sẽ mang lại hiệu quả dài hạn hơn.
Đồng thuận quan điểm cơ sở thuế rộng và mức thuế thấp, ông Trương Bá Tuấn cho biết, Việt Nam cũng muốn tiếp cận cách này nhưng khi triển khai không đạt kỳ vọng bởi thực tế khi có dự thảo chính sách thuế đưa ra có mở rộng cơ sở thuế đều khó thực hiện bởi nhiều kiến nghị chỉ miễn, giảm, không thu thuế…
Trước sự quan tâm của phía bạn về ưu đãi thuế cho khoa học công nghệ, ông Tuấn thông tin, để biết khoản doanh nghiệp thực sự chi cho mục tiêu này, bên cạnh cơ quan tài chính, Việt Nam còn có sự tham gia của các bộ quản lý chuyên ngành như Bộ Khoa học và Công nghệ. Cơ quan này sẽ xác định khoản chi nào là chi cho khoa học công nghệ. Theo ông Tuấn, để chính sách thuế phát huy hiệu quả, điều kiện, tiêu chí làm căn cứ áp dụng là rất quan trọng, cần có các quy định để thực hiện đúng mục tiêu, yêu cầu.
Trần Huyền
Nguồn Tài Chính : http://tapchitaichinh.vn/cai-cach-chinh-sach-thue-nham-thuc-hien-cac-muc-tieu-uu-tien-chien-luoc.html