Những ngày sống trong trại tập trung của quân phát xít là ký ức kinh hoàng của nhiều người. Ảnh minh họa: Một cảnh trong phim Bản danh sách của Schindler.
Ở châu Âu, bệnh cường giáp thường được gọi là bệnh Basedow, đặt theo tên của Karl Adolph von Basedow, một bác sĩ người Đức, người đã mô tả căn bệnh tại cùng thời điểm với bác sĩ Robert Graves.
Khi nghiên cứu về căng thẳng độc hại, tôi đã đọc qua những dữ liệu về rất nhiều ca cường giáp ở những nạn nhân trong trại tập trung của quân phát xít. Trên thực tế, thuật ngữ kriegs-Basedow (kriegs nghĩa là “chiến tranh”, vì thế kriegs-Basedow là “bệnh cường giáp thời chiến”) được đặt ra khi người ta quan sát thấy các ca cường giáp đã tăng cao trong những cuộc chiến tranh lớn.
Trinity đã đến gặp bác sĩ nội tiết, bác sĩ đã khẳng định cô bé đúng là mắc bệnh Graves. Không còn nghi ngờ gì, chứng cường giáp đã gây ra các rắc rối ở trường. Khi Trinity bắt đầu dùng thuốc, các vấn đề hành vi và học tập đã được cải thiện. Chúng không hoàn toàn biến mất, nhưng cô bé đã tốt hơn rất nhiều so với trước đây.
Hóa ra là từ trước, những nhà nghiên cứu đã biết rằng bệnh Graves thường có liên quan đến các sự kiện căng thẳng trong đời, Trinity có vô số các trải nghiệm này. Rõ ràng là vấn đề điều hòa cảm xúc của cô bé đã đè nặng lên bệnh cường giáp, khiến Trinity càng khó khăn hơn trong lớp học. Điều điên rồ là nhiều bác sĩ bận rộn đánh giá ADHD chỉ dựa trên triệu chứng hành vi, họ thậm chí còn không đặt ống nghe lên ngực bệnh nhân.
Một lần nữa, tôi lại thấy tầm quan trọng của lối tiếp cận toàn diện khi thăm khám những đứa trẻ có rủi ro cao. Ngay cả khi tôi không biết chính xác mình đang tìm kiếm điều gì, việc sử dụng điểm ACE làm thước đo nguy cơ cho căng thẳng độc hại biến tôi thành một bác sĩ giỏi hơn, giúp tôi đặt đúng góc nhìn vào vấn đề để phát hiện những điều mà tôi có thể sẽ bỏ lỡ.
Sau khi kê thuốc chữa bệnh Graves cho Trinity, "căn bệnh" đầu tiên từ các triệu chứng, tôi kê đơn trị liệu gia đình để chữa "căn bệnh" thứ hai, căng thẳng độc hại tiềm ẩn.
Mục đích của trị liệu gia đình là để dạy Trinity và dì cách tạo ra một môi trường làm giảm thiểu việc tái kích hoạt trục SAM và HPA ở cô bé. Mục tiêu là trang bị cho họ những công cụ ngăn ngừa các tình huống căng thẳng hoặc đáng sợ, và kiểm soát tốt hơn khi chúng xuất hiện, về cơ bản, điều này sẽ làm giảm lượng adrenaline và cortisol ở Trinity.
Tôi không kê bất kỳ loại thuốc về hành vi nào cho Trinity; tôi thiên về cách tiếp cận chậm rãi nhằm xử lý căng thẳng độc hại để biết cái gì hiệu quả và cái gì không. Tất nhiên, đối với vài bệnh nhân, thuốc là một phần quan trọng của tiến trình điều trị, nhưng nhóm lâm sàng chúng tôi rất cẩn thận trong việc dùng thuốc để chữa vấn đề sinh học tiềm ẩn.
Biểu đồ phản ứng của vùng não trước trán (PFC) đối với adrenaline và noradrenaline trông như chữ U ngược. Nhưng với những đứa trẻ gặp rắc rối trong việc kiểm soát bốc đồng và thiếu tập trung do căng thẳng độc hại, hoạt động của PFC có khả năng cao là ở đường cong đi xuống của đồ thị chữ U ngược. Trong những trường hợp đó, nhóm chúng tôi thường không sử dụng những chất kích thích như methylphenidate (Ritalin) hoặc thuốc có gốc từ amphetamines.
Thay vào đó, chúng tôi thường sử dụng guanfacine, một chất phi kích thích ban đầu được tạo ra để chữa cao huyết áp nhưng cũng được dùng để chữa ADHD. Guanfacine nhắm đến những mạch cụ thể trong vùng não trước trán, nơi adrenaline và noradrenaline hoạt động, cải thiện sự bốc đồng và tập trung, thậm chí trong những trường hợp căng thẳng cao độ.
Nadine Burke Harris/ Thái Hà Books & NXB Công thương