Các trường hợp chưa xem xét nghỉ việc theo Nghị định 178
Theo Điều 4 Nghị định 178/2024/NĐ-CP quy định:
Các trường hợp chưa xem xét nghỉ việc
1. Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định này là nữ đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, trừ trường hợp cá nhân tự nguyện nghỉ việc.
2. Những người đang trong thời gian xem xét kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị thanh tra, kiểm tra do có dấu hiệu vi phạm.
Theo đó, cán bộ công chức đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì chưa xem xét nghỉ việc theo quy định.
Ảnh minh họa.
Thông tin trên VietNamNet, anh Nguyễn Minh Luân - lái xe tại một UBND cấp tỉnh được 13 năm. Vợ anh đi làm xa 40km, con nhỏ phải nhờ người trông hộ. Khi cơ quan sắp xếp lại đơn vị hành chính và điều anh sang nơi làm việc cách nhà 130km, anh làm đơn xin nghỉ việc theo Nghị định 178 vì mong muốn được chăm sóc tổ ấm nhỏ.
Tuy nhiên, anh chia sẻ: “Tôi thấy nghị định nói cán bộ, công chức, người lao động có nhu cầu nghỉ thì được giải quyết. Nhưng địa phương tôi lại không cho, bảo chỉ ai dưới 10 năm thì mới được nghỉ hưu trước tuổi”.
Bộ Nội vụ cho biết, căn cứ quy định tại Điều 2 Nghị định 178 (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 67), anh Luân thuộc đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của việc sắp xếp đơn vị hành chính.
Đồng thời, căn cứ quy định tại Điều 17, Điều 19 Nghị định này, việc giải quyết chế độ, chính sách đối với anh Luân do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức triển khai thực hiện và UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định.
Vì vậy, anh Luân cần gửi kiến nghị đến cơ quan thẩm quyền của địa phương để được hướng dẫn giải quyết.
Cán bộ công chức viên chức đủ điều kiện hưởng nhiều chính sách, chế độ khác nhau thì giải quyết thế nào?
Theo Điều 3 Nghị định 178/2024/NĐ-CP quy định nguyên tắc thực hiện chính sách, chế độ nghỉ thôi việc, nghỉ hưu trước tuổi như sau:
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân trong quá trình thực hiện chính sách, chế độ.
- Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, minh bạch và theo quy định của pháp luật.
- Bảo đảm chậm nhất sau 05 năm kể từ ngày quyết định sắp xếp tổ chức bộ máy của cấp có thẩm quyền có hiệu lực thi hành thì số lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý và số lượng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ở các cơ quan, tổ chức đơn vị trong hệ thống chính trị sau sắp xếp theo đúng quy định.
- Bảo đảm chi trả chính sách, chế độ kịp thời, đầy đủ theo quy định của pháp luật; sử dụng đúng, hiệu quả ngân sách nhà nước.
- Từng cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực hiện rà soát, đánh giá tổng thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động công tâm, khách quan trên cơ sở đánh giá phẩm chất, năng lực, kết quả thực hiện và mức độ hoàn thành nhiệm vụ theo yêu cầu vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động; trên cơ sở đó thực hiện sắp xếp, tinh giản biên chế và thực hiện chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động.
- Tập thể lãnh đạo cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chịu trách nhiệm trong đánh giá, sàng lọc, lựa chọn đối tượng nghỉ việc gắn với việc cơ cấu và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý để cơ quan, tổ chức, đơn vị hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.
- Một đối tượng đủ điều kiện hưởng nhiều chính sách, chế độ quy định tại các văn bản khác nhau thì chỉ được hưởng một chính sách, chế độ cao nhất.
- Các bộ, ban, ngành ở trung ương và các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở cấp tỉnh phải cử khoảng 5% cán bộ, công chức, viên chức trong biên chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị đi công tác ở cơ sở.
Theo đó, cán bộ công chức viên chức đủ điều kiện hưởng nhiều chính sách, chế độ khác nhau thì chỉ được hưởng một chính sách, chế độ cao nhất.
Nhật Hạ (t/h)