Tham gia thảo luận, đại biểu (ĐB) Nguyễn Thị Thu Thủy (thành viên đoàn ĐBQH tỉnh Gia Lai) bày tỏ thống nhất với mục tiêu tổng quát của Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 là: “góp phần nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của nhân dân…; đặc biệt giải quyết các vấn đề dân số ưu tiên”. Trong đó, phân chia các dự án thành phần, tiểu dự án thực hiện, nguồn lực, bộ, ngành phụ trách…
ĐB Nguyễn Thị Thu Thủy đề nghị ban soạn thảo cần rà soát hết sức cụ thể các chương trình mục tiêu quốc gia đang triển khai nhằm hạn chế trùng lắp, phân tán nguồn lực. Ảnh: ĐBQH tỉnh
ĐB Thủy cũng đề cập đến bối cảnh Việt Nam đang bước vào thời kỳ dân số già hóa nhanh. Tình trạng thất nghiệp trong lực lượng lao động trẻ, người trẻ lệ thuộc vào mạng xã hội, tâm lý khi sống trong gia đình đổ vỡ và khó khăn về kinh tế (đặc biệt là tác động từ suy thoái kinh tế sau Covid-19) dẫn đến việc lập gia đình, sinh con, tái tạo lao động mới trong tương lai sẽ còn giảm mạnh.
Bên cạnh đó, một vấn đề xã hội cần quan tâm là tình trạng ly hôn, nhất là ở các gia đình trẻ, mới cưới. Theo thống kê của Viện Nghiên cứu gia đình và giới năm 2023 (công bố đầu năm 2024), Việt Nam có trên 60.000 vụ ly hôn/năm, chiếm khoảng 30% tổng số cặp đôi kết hôn. Trong các vụ ly hôn, 70% thuộc về các gia đình trẻ, trong độ tuổi từ 18-30; 60% vụ ly hôn sau 1-5 năm chung sống, thậm chí nhiều trường hợp chỉ sau vài tháng hoặc vài tuần.
“Các vụ ly hôn không chỉ ảnh hưởng đến tâm, sinh lý của con cái, mà còn là gánh nặng đối với xã hội nếu như những đứa trẻ bị bỏ rơi, không được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục chu đáo. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng tội phạm tuổi vị thành niên có xu hướng gia tăng”-ĐB Thủy nói.
Với những phân tích đó, ĐB Nguyễn Thị Thu Thủy đề xuất một số giải pháp bổ sung vào Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035.
Thứ nhất, có rất nhiều chính sách đang được dự thảo cũng như đã ban hành, như ưu tiên mua nhà ở xã hội (như trong dự thảo Luật Dân số Quốc hội đang thảo luận), tăng thời gian nghỉ thai sản, chính sách hỗ trợ cho phụ nữ sinh con trước 35 tuổi.
Tuy nhiên, ĐB Thủy đề nghị ban soạn thảo cần nghiên cứu các nhóm chính sách căn cơ hơn. Người trẻ cần nhất là chính sách hỗ trợ việc làm, cùng các hoạt động tư vấn tâm lý cho lao động tại các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có đông lao động trẻ, tạo sân chơi giúp họ có cơ hội lập gia đình.
Bên cạnh đó, cần ưu tiên hỗ trợ các gia đình trong việc giữ trẻ; nhà trẻ có cơ chế hoạt động đặc biệt về thời gian phù hợp với công nhân, người lao động theo ca. Tăng mức được hưởng chế độ thai sản ngoài thời gian được nghỉ thai sản theo quy định, cần hỗ trợ về chăm sóc tâm sinh lý sau thai sản... Khi đời sống kinh tế và những dịch vụ kèm theo như trên được đảm bảo sẽ giúp các bạn trẻ bớt ngại lập gia đình và sinh con.
Thứ hai, bổ sung thêm chính sách hỗ trợ tư vấn tâm lý theo định kỳ, sức khỏe thể chất cho trẻ em trong các gia đình hậu ly hôn, trẻ yếu thế, mồ côi do Covid-19, thiên tai, bão lũ cho đến khi các em trưởng thành.
Thứ ba, Luật Bảo hiểm y tế hiện hành đã có các chính sách ưu tiên, mở rộng nhóm bệnh được thanh toán hưởng bảo hiểm xã hội, tuy nhiên kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chưa được đưa vào Luật. Thực tế chúng ta đang đối mặt với thách thức với mức sinh ngày càng thấp, trong khi vô sinh thứ phát cao.
Về vấn đề này, ĐB Nguyễn Thị Thu Thủy đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu trong Chương trình Mục tiêu quốc gia lần này bổ sung thêm nhóm chính sách hỗ trợ ưu tiên trong chăm sóc sức khỏe sinh sản cho các cặp vợ chồng hiếm muộn như là một bệnh lý thông thường; đặt hàng và đầu tư nguồn lực cho các bệnh viện nghiên cứu sâu về lĩnh vực này… Qua đó, góp phần duy trì ổn định chất lượng và số lượng dân số như Chương trình Mục tiêu quốc gia đang hướng đến.
Cuối cùng, ĐB Thủy đề nghị ban soạn thảo cần rà soát hết sức cụ thể các chương trình mục tiêu quốc gia đang triển khai nhằm hạn chế trùng lắp, phân tán nguồn lực.
MAI LÂM