Hiện cả nước có khoảng hơn 300 cơ sở giáo dục đại học, bao gồm 11 đại học (2 đại học quốc gia, 3 đại học vùng, 6 đại học được nâng cấp từ trường đại học theo Luật Giáo dục đại học 2018); 173 trường đại học, học viện công lập (không gồm các trường thành viên thuộc đại học quốc gia và đại học vùng); 62 trường đại học tư thục và 5 trường đại học nước ngoài; 8 trường đào tạo bồi dưỡng có hoạt động giáo dục đại học; 31 trường thuộc khối quốc phòng, an ninh; 40 viện nghiên cứu đào tạo trình độ tiến sĩ; 5 cơ sở khác được đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ. [1]
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo yêu cầu: Triển khai sắp xếp, tái cấu trúc các cơ sở giáo dục đại học; sáp nhập, giải thể các cơ sở giáo dục đại học không đạt chuẩn; xóa bỏ cấp trung gian, bảo đảm quản trị tinh gọn, thống nhất, hiệu quả. Bên cạnh đó, nghiên cứu sáp nhập các viện nghiên cứu với các cơ sở giáo dục đại học;...
Theo nhiều chuyên gia, việc sáp nhập nhằm khắc phục tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, thiếu liên kết, đặc biệt ở những trường có ngành đào tạo tương đồng, qua đó giúp các trường mạnh hơn, phát triển bền vững hơn.
Hệ thống đại học Việt Nam có số lượng nhiều nhưng quy mô và chất lượng chưa đồng đều
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Nam, nguyên Giám đốc Đại học Đà Nẵng bày tỏ, trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, việc sắp xếp, sáp nhập các trường đại học công lập đang được đặt ra như một yêu cầu tất yếu. Đây là một chủ trương lớn nhằm khắc phục tình trạng manh mún, phân tán, tạo điều kiện hình thành những cơ sở giáo dục đại học đủ mạnh, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới.
Giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Nam - nguyên Giám đốc Đại học Đà Nẵng. Ảnh: Website nhà trường
Theo thầy Nam, thực tế hiện nay, hệ thống đại học Việt Nam có số lượng nhiều nhưng quy mô và chất lượng chưa đồng đều. Trong đó, nhiều trường thiếu nguồn lực về tài chính, nhân sự, cơ sở vật chất, đồng thời hoạt động nghiên cứu còn hạn chế. Chưa kể, nhiều sinh viên tốt nghiệp chưa thực sự đáp ứng nhu cầu thị trường lao động. Điều này cho thấy, việc tái cấu trúc hệ thống, giảm sự phân tán và tập trung nguồn lực là bước đi cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu, cũng như uy tín của giáo dục đại học Việt Nam.
Do đó, để việc sắp xếp thực sự mang lại hiệu quả, một trong những yếu tố tiên quyết là phải có tiêu chí rõ ràng và minh bạch. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa công bố bộ tiêu chí cụ thể cho quá trình sáp nhập. Tuy nhiên, riêng về chuẩn của các trường đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT quy định về chuẩn cơ sở giáo dục đại học.
Theo đó, 6 tiêu chuẩn để bảo đảm chất lượng và hoạt động của một trường đại học, gồm: Tổ chức và quản trị, giảng viên, điều kiện dạy và học, tài chính, tuyển sinh và đào tạo, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.
“Tôi cho rằng đây hoàn toàn có thể là cơ sở quan trọng để lựa chọn trường, đánh giá mức độ đáp ứng, từ đó xây dựng phương án sắp xếp một cách khoa học, khách quan.
Mặt khác, chúng ta phải nhìn nhận quá trình sáp nhập chắc chắn sẽ phát sinh khó khăn nhất định. Trong đó, các vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy, nhân sự, hay phân bổ cơ sở vật chất đều tiềm ẩn nguy cơ xáo trộn. Tuy nhiên, điều cốt lõi nằm ở việc lựa chọn được đội ngũ lãnh đạo có uy tín và năng lực, có thể dung hòa lợi ích, định hướng phát triển chung. Khi lợi ích cộng đồng và sự phát triển bền vững của hệ thống giáo dục được đặt lên hàng đầu, những xung đột cục bộ sẽ dần được tháo gỡ. Đây cũng là bài học mà nhiều quốc gia đã trải qua khi thực hiện tái cấu trúc giáo dục đại học.
Bên cạnh đó, mục tiêu của việc sắp xếp không nên bó hẹp vào việc giảm đầu mối quản lý, mà cần hướng đến củng cố cả ba trụ cột cốt lõi của đại học: Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng. Đây là những giá trị nền tảng, thước đo để đánh giá hiệu quả của cơ sở giáo dục đại học”, thầy Nam nêu quan điểm.
Cùng bàn về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Văn Dũng - nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, khi xem xét chủ trương sắp xếp các trường đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên xem xét một số tiêu chí cốt lõi để đảm bảo hiệu quả.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Văn Dũng - nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NEU
Thứ nhất là tiêu chí về lĩnh vực đào tạo. Việc sắp xếp đại học công lập nên ưu tiên những trường có ngành đào tạo tương đồng hoặc bổ trợ lẫn nhau, nhằm giải quyết thực trạng nhiều trường hiện nay còn nhỏ lẻ, phân tán nguồn lực và khó mở rộng quy mô. Nếu thực hiện đúng hướng, hệ thống giáo dục đại học sẽ trở nên tinh gọn, vận hành hiệu quả hơn, tránh tình trạng những trường quá nhỏ không có cơ hội phát triển.
Thứ hai là tiêu chí đạt chuẩn chất lượng tổng thể. Các trường không đáp ứng chuẩn mực sẽ được xem xét sáp nhập hoặc giải thể, dựa trên 6 nhóm tiêu chuẩn theo Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT quy định về chuẩn cơ sở giáo dục đại học. Đồng thời, Bộ cần ưu tiên sáp nhập các trường gần nhau về mặt địa lý để tiết kiệm chi phí quản lý, tạo điều kiện thuận lợi trong tổ chức đào tạo và nghiên cứu. Quan trọng hơn, quá trình sáp nhập phải bảo đảm quyền lợi của sinh viên và giảng viên, đồng thời hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đáp ứng chuẩn mực quốc tế.
“Theo tôi, cách tiếp cận theo Thông tư 01 là một bước đi tích cực và cần thiết trong tiến trình tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học. Điểm nổi bật của cách tiếp cận này nằm ở tính khách quan và minh bạch trong quá trình lựa chọn, nhờ đó buộc các trường phải tự đánh giá và cải thiện trước khi bị xem xét sáp nhập hoặc giải thể. Đây cũng là yếu tố tạo ra động lực cạnh tranh lành mạnh trong toàn hệ thống.
Tuy vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cần lưu ý một số hạn chế. Việc áp dụng thiếu linh hoạt và chưa tính đến yếu tố đặc thù địa phương có thể dẫn tới những phản ứng trái chiều từ các bên liên quan. Bên cạnh đó, thách thức trong khâu thực thi cũng không nhỏ, bởi không phải tất cả các trường đều có khả năng nhanh chóng đạt chuẩn, đặc biệt ở những tiêu chí về tài chính và nghiên cứu. Nếu không tính toán kỹ, quá trình này có nguy cơ dẫn đến tình trạng nhiều trường bị giải thể hơn là sáp nhập.
Do đó, để nâng cao hiệu quả đánh giá, việc sử dụng các tiêu chuẩn cần kết hợp đánh giá định lượng với đánh giá định tính. Ngoài các chỉ số đo lường cụ thể, Bộ cần tham khảo thêm ý kiến từ cộng đồng giảng viên, sinh viên và chính quyền địa phương. Chỉ khi vừa bảo đảm sự khách quan bằng số liệu, vừa phản ánh được đặc thù của từng cơ sở, việc sáp nhập mới thực sự đi vào thực chất, qua đó góp phần hình thành một hệ thống giáo dục đại học tinh gọn, chất lượng và phát triển bền vững”, thầy Dũng nêu quan điểm.
Đề xuất lộ trình sắp xếp đại học công lập gồm 3 giai đoạn chính
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Văn Dũng, việc sắp xếp các trường đại học công lập ở Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong việc tinh gọn hệ thống, khắc phục tình trạng manh mún, nhỏ lẻ và nâng cao chất lượng đào tạo. Với 140 trường công lập thuộc diện sắp xếp, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xây dựng lộ trình một cách cẩn trọng để tạo được sự đồng thuận từ xã hội (bao gồm giảng viên, sinh viên, phụ huynh và cộng đồng), đồng thời giảm thiểu tối đa những xáo trộn đối với hoạt động đào tạo cũng như quyền lợi của từng cá nhân. Lộ trình này nên được chia thành ba giai đoạn chính.
Ảnh minh họa: website Đại học Đà Nẵng
Trong giai đoạn chuẩn bị và rà soát (từ nay đến đầu năm 2026), Bộ cần ưu tiên sắp xếp các trường không đạt chuẩn vào những trường lớn hơn, có sự tương đồng về lĩnh vực đào tạo và gần gũi về địa lý. Cùng với đó, các cơ quan quản lý phải xây dựng đề án cụ thể cho từng trường hoặc nhóm trường, bao gồm phương án về nhân sự, tài chính, cơ sở vật chất và chương trình đào tạo. Giai đoạn này dự kiến kéo dài từ ba đến sáu tháng.
Đến giai đoạn thực hiện sắp xếp (từ năm 2026 đến 2028), Bộ sẽ triển khai theo các đề án đã được phê duyệt, ưu tiên xử lý các trường nhỏ lẻ, dưới chuẩn trong cùng một khu vực hoặc có ngành đào tạo tương đồng. Trong quá trình thực hiện, Bộ cần thiết kế cơ chế hỗ trợ chuyển tiếp phù hợp, đảm bảo các chương trình học đang triển khai được duy trì liên tục, đồng thời bố trí việc chuyển sinh viên và giảng viên sang trường mới mà không gây gián đoạn. Quyền lợi của sinh viên và giảng viên, bao gồm học bổng, lương thưởng và vị trí công việc, cũng cần được giữ nguyên.
Cuối cùng, ở giai đoạn đánh giá và hoàn thiện (từ năm 2029 đến 2030), Bộ tiến hành tổng kết và đánh giá toàn diện hiệu quả sáp nhập trên nhiều phương diện: chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, quyền lợi của người học và giảng viên, cũng như mức độ đồng thuận của xã hội. Trên cơ sở kết quả này, Bộ sẽ có thể điều chỉnh chính sách, ban hành cơ chế quản lý phù hợp hơn và tiếp tục hoàn thiện mô hình đại học tinh gọn, hiện đại, tiệm cận với chuẩn mực quốc tế.
“Đặc biệt, lộ trình sắp xếp cần được lấy ý kiến rộng rãi, đồng thời ngăn chặn những tin đồn sai lệch, đơn cử sơ đồ sáp nhập giả mạo từng lan truyền dạo gần đây. Bên cạnh đó, công tác truyền thông và giáo dục nhận thức cần được triển khai song song với sự phối hợp của chính quyền địa phương và các bộ, ngành, nhằm bảo đảm quá trình sáp nhập không ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của từng khu vực”, thầy Dũng bày tỏ.
Đồng quan điểm trên, nguyên Giám đốc Đại học Đà Nẵng cho biết, nhiều quốc gia đã triển khai thành công trong việc hình thành các trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực bằng cách sáp nhập hoặc tái cấu trúc các cơ sở giáo dục nhỏ lẻ.
Đối với Việt Nam, các trường đại học công lập cần chú trọng đến việc hợp tác với viện nghiên cứu. Trước đây, các viện nghiên cứu thường mạnh về trang thiết bị và năng lực nghiên cứu, nhưng lại thiếu gắn kết với đào tạo; trong khi nhiều trường đại học có chức năng đào tạo nhưng hạn chế về điều kiện nghiên cứu. Do đó, nếu hợp tác chặt chẽ, Việt Nam sẽ có những đơn vị vừa mạnh về đào tạo, vừa mạnh về nghiên cứu và có khả năng hội nhập quốc tế. Đây cũng là giải pháp hữu hiệu để giữ chân các tiến sĩ, nhà khoa học trẻ được đào tạo từ nước ngoài trở về, tránh tình trạng “chảy máu chất xám”.
“Sắp xếp đại học công lập là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu phát triển giáo dục hiện nay. Song, để đi vào thực chất, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần sớm ban hành bộ tiêu chí cụ thể, minh bạch, đồng thời có lộ trình hợp lý, cơ chế giám sát chặt chẽ để đảm bảo tính khả thi. Nếu được triển khai đúng hướng, đây sẽ là cơ hội để Việt Nam hình thành những đại học lớn, đủ mạnh, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, thúc đẩy nghiên cứu khoa học và phục vụ tốt hơn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”, thầy Nam nhấn mạnh.
Tài liệu tham khảo:
[1]: https://giaoduc.net.vn/truoc-cuoc-dai-sap-xep-cac-co-so-giao-duc-dai-hoc-truong-dh-cong-lap-can-nam-ro-nhung-gi-post254673.gd
Yên Đan