Ngày 18/9, Bộ Nội vụ đã ban hành Công văn số 8150/BNV-TCBC gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc sắp xếp đơn vị sự nghiệp, theo chỉ đạo tại Công văn số 59-CV/BCĐ ngày 12/9/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW.
Trong đó, Bộ Nội vụ đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nghiên cứu, rà soát sắp xếp đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý.
Riêng đối với việc sắp xếp cơ sở giáo dục đào tạo, Bộ Nội vụ đề xuất “tối đa mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không quá 03 trường dạy nghề (không tính các trường tự bảo đảm chi thường xuyên trở lên)”.
Tuy nhiên, việc triển khai đã phát sinh những vướng mắc, đặc biệt là cách hiểu về thuật ngữ“trường dạy nghề”.
Cần làm rõ thuật ngữ “trường dạy nghề”
Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ảnh: Tùng Dương
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho biết, trong hệ thống văn bản pháp luật hiện hành không tồn tại khái niệm “trường dạy nghề”, mà chỉ có “cơ sở giáo dục nghề nghiệp”. Do vậy, Bộ Nội vụ cần làm rõ “trường dạy nghề” ở đây bao gồm những loại hình nào.
Theo Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh, cơ sở giáo dục nghề nghiệp có đặc thù đào tạo đa ngành, đa nghề, cung cấp nguồn nhân lực trực tiếp cho địa phương. Với các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh - nơi nhu cầu nhân lực và quy mô dân số rất lớn, nếu chỉ giới hạn 3 cơ sở e rằng sẽ khó đáp ứng đủ.
“Văn bản của Bộ Nội vụ chỉ nên là định hướng khung. Địa phương cần chủ động đề xuất dựa trên nhu cầu thực tế để bảo đảm phù hợp,” Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh nói.
Tại Công văn, Bộ Nội vụ cũng đề xuất “Hợp nhất trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trung tâm giáo dục thường xuyên thành trung học nghề tương đương cấp trung học phổ thông trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo để cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo khu vực liên phường, xã”.
Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh, quy định này chưa phù hợp vì Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014 chưa có loại hình “trường trung học nghề”, trong khi Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) vẫn chưa được thông qua. Do đó công văn này nên giải thích thêm về tính tương đương về giá trị pháp lý mà không tương đương về mục tiêu, nội dung chương trình và đầu ra của 2 con đường học tập cùng bậc trung học như hầu hết các quốc gia trên thế giới, như tinh thần chỉ đạo tại Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Mặt khác, trung tâm giáo dục thường xuyên hiện đã hợp nhất với trung tâm giáo dục nghề nghiệp trước đây và thực hiện hai chức năng. Giáo dục thường xuyên vốn dành cho những người bỏ lỡ cơ hội học tập chính khóa, người lao động cần bổ túc văn hóa để đi làm, hay người trưởng thành muốn trau dồi thêm kiến thức, ngoại ngữ, tin học. Điểm mạnh là sự linh hoạt: có thể học buổi tối, cuối tuần hoặc ngắn hạn.
Trong khi đó, trường trung học nghề lại theo mô hình chính quy, toàn thời gian, tuyển học sinh ngay sau trung học cơ sở với lộ trình 3-4 năm và đòi hỏi đầu tư nhiều, vì vậy cần phải tính đến điều kiện nguồn lực.
Ảnh minh họa: Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên Tam Đảo (tỉnh Vĩnh Phúc cũ)
Chia sẻ thêm, Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh nhấn mạnh, trong bối cảnh cải cách hành chính, yêu cầu xóa bỏ tầng nấc trung gian và tinh gọn bộ máy, việc quy hoạch lại hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp trở thành nhiệm vụ cấp bách và cách tiếp cận cần tránh tư duy “đồng phục” trong quy hoạch. Tuy nhiên, nếu chỉ sáp nhập cơ học để giảm đầu mối, nguy cơ làm nghèo năng lực đào tạo, thu hẹp cơ hội người học và giảm gắn kết với thị trường lao động là rất lớn. Mục tiêu của 10-20 năm tới phải là hiện đại, có chất lượng và sự gắn kết chứ không chỉ là số lượng.
Theo Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh, quy hoạch lại giáo dục nghề nghiệp cần dựa trên bốn nguyên tắc:
Trước hết là nguyên tắc chất lượng, nghĩa là chỉ duy trì những cơ sở có năng lực và đạt chuẩn kiểm định chất lượng.
Kế đến là nguyên tắc phân tầng và chuyên môn hóa, nhằm hình thành các trường cao đẳng hoặc một cụm trường cao đẳng như mô hình Viện Giáo dục kỹ thuật Singapore, đi kèm với mạng lưới vệ tinh linh hoạt (là các trung tâm giáo dục thường xuyên-giáo dục nghề nghiệp) để phục vụ nhu cầu tại chỗ cho nhân dân.
Thứ ba là nguyên tắc đồng kiến tạo với doanh nghiệp, bảo đảm mọi chương trình đào tạo gắn trực tiếp với yêu cầu tuyển dụng và chuẩn đầu ra.
Cuối cùng là nguyên tắc minh bạch và trách nhiệm giải trình, tức mọi quyết định sáp nhập hay giải thể phải dựa trên tiêu chí rõ ràng, có đánh giá tác động và lộ trình chuyển tiếp cụ thể.
“Quy hoạch lại hệ thống giáo dục nghề nghiệp phải là một cải cách chất lượng, dẫn dắt bởi dữ liệu, đồng kiến tạo cùng doanh nghiệp và gắn với quy hoạch nhân lực. Nếu vượt qua thói quen làm chính sách thiếu nghiên cứu, Việt Nam có thể xây dựng một hệ thống giáo dục nghề nghiệp hiện đại, trở thành động lực nâng cao năng suất và sức cạnh tranh quốc gia trong thập kỷ tới”, Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh nhấn mạnh.
Không nên “cào bằng”
Ông Trần Anh Tuấn - Chuyên gia dự báo nhân lực, Phó chủ tịch Hội giáo dục nghề nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
Đồng quan điểm, ông Trần Anh Tuấn - Chuyên gia dự báo nhân lực, Phó chủ tịch Hội giáo dục nghề nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, cũng cho rằng cần làm rõ thuật ngữ “trường dạy nghề” được nêu trong công văn bao gồm những loại hình nào.
Theo ông, cùng với công cuộc "sắp xếp lại giang sơn", việc sắp xếp, tổ chức lại mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng tinh gọn, hiệu quả là đúng đắn và cần thiết, nhằm tập trung nguồn lực đầu tư để nâng cao chất lượng đào tạo.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động cũng như năng lực đào tạo của từng địa phương. Việc này đòi hỏi phải có đánh giá, phân tích, xây dựng điều kiện và tiêu chuẩn sắp xếp trên cơ sở khoa học, đồng thời dự báo được sự phát triển mới của địa phương trong bối cảnh chuyển đổi số và sự thay đổi nhanh chóng về nhu cầu nhân lực.
Ông Trần Anh Tuấn chia sẻ, việc sắp xếp cần tính tới đặc điểm nguồn nhân lực tại chỗ và đặc thù của từng địa phương. Thực tế hiện nay, không còn tỉnh hay thành phố nào “nhỏ”, nhưng có nơi dân số đông, có nơi dân số thưa, địa bàn rộng hay hẹp rất khác nhau.
Đặc biệt, các đô thị lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có quy mô dân số lớn (thành phố Hồ Chí Minh sau sáp nhập có dân số khoảng 14 triệu người, thành phố Hà Nội đạt khoảng 9 triệu người - năm 2025), là những trung tâm đào tạo lớn, thu hút nguồn nhân lực của cả nước. Do đó, nếu chỉ áp dụng một cách “cào bằng” thì sẽ không phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn. Thay vào đó, từng tỉnh, thành phố cần có phương án thuyết minh thuyết phục, dựa trên các điều kiện và luận cứ khoa học cụ thể.
Chuyên gia nhấn mạnh, nguyên tắc sắp xếp phải gắn với thị trường lao động, nghĩa là mọi quyết định cần dựa trên nhu cầu việc làm, xu hướng nghề nghiệp và yêu cầu tuyển dụng. Bên cạnh đó, việc sáp nhập phải bảo đảm hiệu quả quy mô nhưng không làm mất đi tính chuyên môn, vừa tận dụng được cơ sở vật chất, giảm chi phí, vừa duy trì được các ngành nghề đặc thù. Quá trình sắp xếp cũng cần tính đến đặc điểm doanh nghiệp sử dụng lao động và khả năng tiếp cận của người học, bảo đảm phân bố hợp lý để giảm rào cản địa lý.
Chất lượng đào tạo phải được duy trì liên tục, tránh để việc sáp nhập làm gián đoạn chương trình, chuẩn đầu ra hay kiểm định chất lượng. Đồng thời, mô hình quản trị cần phù hợp, có đội ngũ lãnh đạo đủ năng lực và cơ chế trách nhiệm rõ ràng, đi cùng với nguyên tắc công bằng xã hội, bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương như học viên vùng xa hay lao động lớn tuổi. Yếu tố bền vững tài chính cũng phải được đặt ra, với phương án cân đối chi phí vận hành và đầu tư.
Theo ông Tuấn, việc sáp nhập nếu được tính toán khoa học sẽ giúp giảm chi phí cố định như hạ tầng và hành chính, đồng thời tăng hiệu suất sử dụng thiết bị. Đây cũng là cơ hội để hình thành các trung tâm đào tạo chuyên sâu, nâng cao chất lượng thực hành, cũng như tạo liên kết nội bộ giữa các ngành để thúc đẩy chuyển giao công nghệ và đổi mới chương trình.
Tuy nhiên, ông cảnh báo rằng những thay đổi về tổ chức có thể dẫn đến nguy cơ mất mát nhân lực và giảm động lực nếu không có kế hoạch quản trị sự thay đổi hợp lý. Vì vậy, đi đôi với sáp nhập phải là giải pháp đổi mới và phát triển đội ngũ, nhằm bảo đảm hệ thống giáo dục nghề nghiệp vận hành ổn định và đáp ứng nhu cầu nhân lực trong giai đoạn tới.
Trường Cao đẳng Gia Lai. Ảnh: website nhà trường
Từ thực tiễn quản lý, Thầy Phạm Văn Điều - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Gia Lai chia sẻ, việc sắp xếp, sáp nhập các cơ sở giáo dục nghề nghiệp hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức. Một trong những khó khăn lớn là vấn đề khoảng cách địa lý. Sau khi cả nước thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính, từ 63 tỉnh, thành phố giảm còn 34, diện tích mỗi địa phương đều trở nên rất rộng. Trong bối cảnh đó, việc tổ chức, phân bố các cơ sở đào tạo trên địa bàn cần được tính toán kỹ lưỡng để bảo đảm khoảng cách hợp lý, tạo điều kiện cho người học tiếp cận thuận lợi.
Bên cạnh đó, đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội và cơ cấu người học của từng vùng cũng là yếu tố phải cân nhắc. Thầy Điển lấy ví dụ tại tỉnh Gia Lai mới, được hình thành trên cơ sở sáp nhập Gia Lai và Bình Định. Trong khi Gia Lai cũ có tới 46% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số thì Bình Định cũ chỉ có khoảng 4%. Sự khác biệt này đòi hỏi việc sắp xếp lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải chú trọng đến điều kiện học tập của các nhóm đối tượng khác nhau, từ ngôn ngữ, phong tục đến khả năng tiếp cận dịch vụ đào tạo.
Theo Thầy Phạm Văn Điều, nếu quá trình sắp xếp được tiến hành trên cơ sở khoa học, gắn với đặc thù địa bàn và nhu cầu thực tế của người học, hệ thống giáo dục nghề nghiệp sẽ không chỉ tinh gọn hơn mà còn phát huy hiệu quả trong đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng.
Theo Điều 5, Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014 (có hiệu lực từ 01/7/2015), hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp gồm:
a) Trung tâm giáo dục nghề nghiệp;
b) Trường trung cấp;
c) Trường cao đẳng.
Theo Điều 7, Dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi 2025), cơ sở giáo dục nghề nghiệp gồm trường trung học nghề, trường trung cấp, trường cao đẳng.
a) Trường trung học nghề thực hiện chương trình đào tạo trình độ sơ cấp, chương trình giáo dục trung học nghề và các chương trình đào tạo nghề khác;
b) Trường trung cấp thực hiện chương trình đào tạo trình độ sơ cấp, chương trình đào tạo trình độ trung cấp, chương trình giáo dục trung học nghề và các chương trình đào tạo nghề khác;
c) Trường cao đẳng thực hiện chương trình đào tạo trình độ sơ cấp, chương trình đào tạo trình độ trung cấp, chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, chương trình giáo dục trung học nghề và các chương trình đào tạo nghề khác.
Doãn Nhàn