Cần tăng cường công tác quản lý loài ngoại lai xâm hại tại Việt Nam

Cần tăng cường công tác quản lý loài ngoại lai xâm hại tại Việt Nam
một ngày trướcBài gốc
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị nhấn mạnh, loài ngoại lai xâm hại là một trong năm nguyên nhân hàng đầu gây suy giảm đa dạng sinh học trên phạm vi toàn cầu. Những loài này không chỉ làm mất cân bằng hệ sinh thái mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống con người và nền kinh tế.
Khi xâm nhập vào môi trường mới, các loài ngoại lai xâm hại có thể phát triển nhanh chóng, lấn át loài bản địa, gây biến đổi lớn trong cấu trúc sinh học, suy giảm tài nguyên thiên nhiên và làm mất đi các giá trị của đa dạng sinh học. Việc kiểm soát và ngăn chặn sự lan rộng của chúng là một thách thức không chỉ riêng Việt Nam mà còn của toàn thế giới, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, tổ chức và cộng đồng.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị - Ảnh: Đức Bách.
Bà Ramla Khalidi – Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam cho biết, hội thảo là dấu mốc quan trọng trong hợp tác giữa Bộ Nông nghiệp và Môi trường với UNDP, trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ hành động sớm” do Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) tài trợ. Sự kiện cũng thể hiện cam kết chung trong việc ứng phó với một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhưng ít được chú ý đối với đa dạng sinh học và phát triển bền vững là loài ngoại lai xâm hại.
Bà Ramla Khalidi – Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam - Ảnh: Đức Bách.
Cũng theo bà Ramla Khalidi, Mục tiêu 6 của Khung Đa dạng sinh học toàn cầu Kunming–Montreal đặt ra yêu cầu giảm 50% mức độ lan rộng của loài ngoại lai xâm hại vào năm 2030. Đây là mục tiêu táo bạo, cần thiết và chỉ có thể đạt được thông qua hành động phối hợp, dựa trên cơ sở khoa học và sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan.
Các đại biểu tham dự Hội thảo quốc gia về Tăng cường quản lý loài ngoại lai xâm hại tại Việt Nam - Ảnh: Đức Bách.
Tổng quan về loài ngoại lai xâm hại ở Việt Nam
Theo Luật Đa dạng sinh học năm 2008 quy định, Loài ngoại lai xâm hại là loài ngoại lai lấn chiếm nơi sinh sống hoặc gây hại đối với các loài sinh vật bản địa, làm mất cân bằng sinh thái tại nơi chúng xuất hiện và phát triển.
Thống kê cho thấy, loài ngoại lai xâm hại góp phần vào 60% vụ tuyệt chủng trên toàn cầu, ngoài ra, thiệt hại kinh tế do loài ngoại lai xâm hại gây ra tăng 4 lần qua mỗi thập kỷ, gây tổn hại đến chất lượng cuộc sống trong 85% tổng số trường hợp. Tính đến năm 2019, ước tính thiệt hại kinh tế hàng năm trên toàn cầu do loài ngoại lai xâm lấn gây ra là 423 tỷ USD.
ThS. Trần Trọng Anh Tuấn (Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, tại Thông tư số 35/2018/TT-BTNMT ngày 28/12/2018 đã quy định tiêu chí và ban hành Danh mục loài ngoại lai xâm hại bao gồm 4 loài vi sinh vật, 4 loài động vật không xương sống, 3 loài cá, 1 loài lưỡng cư - bò sát, 1 loài chim – thú và 6 loài thực vật. Ngoài ra, loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại đã xuất hiện ở Việt Nam gồm 23 loài động vật không xương sống, 9 loài cá, 4 loài lưỡng cư – bò sát, 4 loài chim – thú và 21 loài thực vật.
ThS. Trần Trọng Anh Tuấn (Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) - Ảnh: Đức Bách.
Tại Việt Nam, các loài như ốc bươu vàng, bèo tây, rùa tai đỏ, mai dương… đang tiếp tục lan rộng, ảnh hưởng tới sinh kế của người dân và làm suy giảm đa dạng sinh học. Thiệt hại kinh tế do các loài này gây ra không hề nhỏ – nhưng điều đáng lo hơn là chúng ngày càng khó kiểm soát.
Đánh giá về nguy cơ xâm hại của loài ngoại lai, TS. Bùi Đắc Thuyết (Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội) chỉ ra các tiêu chí để xác định các loài ngoại lai xâm hại (IAS) bao gồm khả năng xâm nhập, thiết lập và lan rộng cũng như tác động của loài tới môi trường và hệ sinh thái tự nhiên.
TS. Bùi Đắc Thuyết (Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội) - Ảnh: Đức Bách.
Thách thức và hạn chế còn tồn đọng
Tuy nhiên, vẫn còn đó những hạn chế tồn đọng trong quy định quản lý sinh vật ngoại lai xâm hại. Theo ThS. Trần Trọng Anh Tuấn nhận định, việc quản lý còn hạn chế chưa có sự hướng dẫn cụ thể về mặt kỹ thuật trong việc xác định nguy cơ để phát hiện sớm, phản ứng nhanh đối với sinh vật ngoại lai xâm hại trong nước cũng như chưa có hướng dẫn cụ thể về việc kiểm soát, diệt trừ sinh vật ngoại lai xâm hại.
Cũng theo ThS. Trần Trọng Anh Tuấn, công tác quản lý vẫn còn nhiều bất cập, cụ thể là chưa có sự phối hợp chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương, nhận thức của các cấp các ngành đối với tác động của sinh vật ngoại lai xâm hại chưa cao, kỹ năng và kiến thức để quản lý, kiểm soát, diệt trừ nhóm sinh vật này vẫn còn nhiều hạn chế.
Ông Nguyễn Văn Đoàn (Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cũng chỉ ra những khó khăn và thách thức trong công tác quản lý sinh vật ngoại lai xâm hại ở các hệ sinh thái rừng bao gồm những khó khăn về thể chế, chính sách; nhận thức của người dân chưa cao; nguồn lực còn hạn chế; việc thực thi pháp luật chưa hiệu quả, thiếu hướng dẫn kỹ thuật cũng như hạn chế về hợp tác quốc tế trong quản lý và kiểm soát loài ngoại lai xâm hại.
Ông Nguyễn Văn Đoàn (Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) - Ảnh: Đức Bách.
Giải pháp cho công tác quản lý và điều tra loài ngoại lai xâm hại
Theo Báo cáo đánh giá chuyên đề về các loài ngoại lai xâm hại và biện pháp kiểm soát các loài này của IPBES vào năm 2023, phòng ngừa chính là biện pháp hiệu quả và ít tốn kém nhất. Xâm lấn sinh học là một vấn đề cấp bách nhưng có thể kiểm soát được nếu chúng ta kết hợp các biện pháp phòng ngừa, ứng phó sớm, quản trị toàn diện, và lập chính sách dựa vào bằng chứng khoa học.
Về những giải pháp cụ thể, ThS. Trần Trọng Anh Tuấn (Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đề xuất việc xây dựng và hoàn thiện nội dung quản lý nhóm sinh vật ngoại lai xâm hại bao gồm quy định về phát hiện sớm, phản ứng nhanh và quy định về kiểm soát, diện trừ loài sinh vật ngoại lai xâm hại, bên cạnh đó, cần bổ sung các quy định về quản lý các loài ngoại lai bao gồm nhóm động vật cảnh, cây cảnh và nhóm động/thực vật là thức ăn cho các động vật nuôi.
Tại Hội thảo, PGS.TS. Lê Đức Minh (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội) chia sẻ về một số phương pháp điều tra và phát hiện loài ngoại lai xâm lấn bao gồm phương pháp mô hình hóa phân bố loài, phương pháp gen môi trường, sử dụng thiết bị bay không hoặc có người lái, nhận dạng bằng hình ảnh và phương pháp ghi âm. Đây là những phương pháp khả thi và có tiềm năng để áp dụng ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, TS. Lê Bửu Thạch (Viện Công nghệ tiên tiến, Viện Hàn lâm và Khoa học công nghệ Việt Nam) cũng đã chia sẻ những điển hình về ngăn ngừa và kiểm soát các loài ngoại lai ở Việt Nam có thể kể đến như bài học xử lý cây mai dương của VQG Lò Gò-Xa Mát (Tây Ninh), VQG Tràm Chim (Đồng Tháp) hay bài học kinh nghiệm xử lý cây lục bình cũng như xử lý ốc bươu vàng.
TS. Lê Bửu Thạch (Viện Công nghệ tiên tiến, Viện Hàn lâm và Khoa học công nghệ Việt Nam) - Ảnh: Đức Bách.
Ngoài ra, những bài học từ quốc tế, bao gồm đánh giá của IPBES và kinh nghiệm quản lý tại Sri Lanka, đều cho thấy vai trò then chốt của việc phát hiện sớm, ứng phó kịp thời, kiểm soát từ gốc và huy động sự tham gia của nhiều bên trong quản lý loài ngoại lai xâm hại.
Các đại biểu đều nhất trí rằng, để thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và các cam kết quốc tế, Việt Nam cần đẩy mạnh phối hợp liên ngành giữa các lĩnh vực như nông nghiệp, môi trường, giao thông, kiểm dịch... và các cấp chính quyền địa phương. Bên cạnh đó, việc tăng cường sự tham gia của cộng đồng là yếu tố thiết yếu trong công tác quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học.
ÔngTrần Quang Bảo (Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) và bà Hoàng Thị Thanh Nhàn (Phó Cục trưởng Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học) chủ trì phiên thảo luận tại Hội thảo - Ảnh: Đức Bách.
Theo TS. Bùi Đắc Thuyết (Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội) chia sẻ, hiện nay trên thế giới có nhiều bộ công cụ để đánh giá tác động của loài ngoại lai bao gồm PRA-ISPMs, PRA-EPPO, ARNABI, EICAT, SEICAT, WRA, AS-ISK, TAS-ISK, TPS-ISK, Harmonia+ (ISEIA), Pandora+… trong đó bộ công cụ Harmonia+ được xây dựng bởi các chuyên gia Bỉ được đánh giá là bộ công cụ hiệu quả, hỗ trợ cho việc đánh giá chung về nguy cơ xâm hại của loài ngoại lai. Đây là những bài học kinh nghiệm từ quốc tế mà Việt Nam có thể học hỏi để áp dụng trong công tác quản lý và đánh giá các loài sinh vật ngoại lai xâm hại.
Ông Nguyễn Văn Đoàn (Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm) cũng khuyến nghị cần đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức pháp luật, tác hại và cách kiểm soát loài ngoại lai xâm hại cho người dân, nhất là khách du lịch và cộng đồng sống gần rừng. Đồng thời, cần tổ chức tập huấn cho kiểm lâm và cán bộ bảo tồn về pháp luật, sinh học, phân loại và xử lý loài ngoại lai xâm hại. Ông cũng nhấn mạnh việc tăng cường hợp tác quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ và đào tạo cán bộ, đặc biệt là hợp tác với các nước có chung biên giới.
Trao đổi tại phiên thảo luận, nhiều đại biểu đã trình bày ý kiến về công tác quản lý các loài ngoại lai tại các địa phương trên cả nước. Trong đó, ông Lê Đức Thuận – PGĐ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Thanh Hóa góp ý, cần có những giải pháp đánh giá kỹ lưỡng về tác động của các loài ngoại lai, bên cạnh những loài ngoại lai xâm lấn vẫn có một số loài ngoại lai mang lại tác động tích cực cho môi trường và hệ sinh thái, do đó việc có những biện pháp đánh giá các loài ngoại lai là vô cùng quan trọng.
Đức Bách
Nguồn Kinh tế Môi trường : https://kinhtemoitruong.vn/can-tang-cuong-cong-tac-quan-ly-loai-ngoai-lai-xam-hai-tai-viet-nam-100834.html