Tranh mô tả Suleiman xuất quân. Nguồn ảnh: Bảo tàng Quân đội, Istanbul.
Vào cuối thế kỷ XIV, Đế quốc Bulgaria và Serbia đã không còn tồn tại; đến thế kỷ tiếp theo, Đế chế Byzantine cũng sụp đổ; điều này khiến Vương quốc Hungary trở thành kẻ thù chính của người Ottoman ở Đông Âu. Dưới thời John Hunyadi và con trai ông Matthias Corvinus, quốc gia này đã giữ vai trò trọn vẹn như một bức tường thành chống lại những kẻ ngoại đạo.
Corvinus thậm chí còn vạch ra kế hoạch phát động một chiến dịch nhằm trục xuất người Ottoman khỏi vùng Balkan. Tuy nhiên, kể từ đó Hungary đã suy yếu đi rất nhiều. Các quý tộc đã bầu chọn một người tầm thường là Ladislas Jagiellon lên ngôi vua khi Corvinus qua đời. Người kế vị ông ta, Lewis II, cũng vô dụng không kém.
Cả hai đều không tận dụng sự vắng mặt của người Ottoman ở Ba Tư và Ai Cập để ổn định đất nước và chuẩn bị cho chiến tranh. Mặc dù hiệp ước hòa bình được ký năm 1503 chưa bị vi phạm công khai, nhưng xung đột vẫn chưa bao giờ chấm dứt giữa các trọng thần của quốc vương và các lãnh chúa phong kiến của vua Hungary.
Chỉ cần một sự kiện duy nhất sau đây đã làm bùng nổ ngọn lửa chiến tranh: một phái viên, được cử đến từ Constantinople nhằm yêu cầu Suleiman thanh toán khoản cống nạp hàng năm mà ông đã đề xuất để đổi lấy việc gia hạn hiệp ước hòa bình, đã bị người Hungary ám sát. Quốc vương vô cùng tức giận và lấy vụ việc này làm cái cớ lý tưởng để khơi mào một cuộc chiến.
Công tác chuẩn bị ở Constantinople kéo dài suốt mùa đông năm 1520. Kị binh của mỗi tỉnh và quân không chính quy đều được triệu tập. Lệnh trưng dụng các hội đoàn địa phương, lương thực và động vật đã được gửi dọc theo toàn bộ tuyến đường mà quân đội phải hành quân. Đường sá và cầu cống cũng được sửa chữa.
Mục tiêu của Suleiman là Belgrade, cửa ngõ dẫn vào các quốc gia xung quanh sông Danube. Một khi pháo đài ở đó bị chiếm đóng, các thung lũng sông Danube, Sava và Tisza sẽ đưa quân đội của ông tiến thẳng tới Vienna và Buda. Trong thế kỷ trước, Mehmed II đã bị đánh bại trước Belgrade; đó là thảm họa mà Suleiman quyết tâm trả thù.
Sáu tuần trước ngày xuất quân, hai trong số sáu lá cờ đuôi ngựa (tuǧ), phù hiệu của quyền lực tối cao, được giương cao tại tòa nhà đầu tiên của cung điện. Sau đó, các biểu ngữ theo nghi thức được mang đến Davud Pasha, khu cắm trại đầu tiên bên ngoài Istanbul, nơi tập hợp các bộ binh, những trung đoàn khác và đội nghệ nhân luôn đồng hành cùng quân đội trong chiến dịch.
Mọi dấu hiệu đều khiến người Hungary nhận ra sắp có thêm một làn sóng xâm lược Ottoman mới xảy đến. Họ cầu cứu những người đồng hương châu Âu, nhưng chuốc lấy thất vọng hoàn toàn: Venice sắp ký kết một hiệp ước thương mại có lợi thế lớn với chính quyền trung ương Porte của Ottoman; Giáo hoàng thì có những mối lo khác; vua Ba Lan; Hoàng đế của Thánh chế La Mã - tất cả đều tìm những lý do khác nhau để không can thiệp. Và quả thực, Hội nghị Worms1 còn có những mối quan tâm quan trọng hơn: đúng vào tháng mà phái viên Hungary cầu cứu, Luther đã cắt đứt mọi quan hệ với Giáo hội Công giáo.
Những vấn đề khác ở Đức còn cấp bách hơn nhiều so với mối đe dọa từ người Ottoman. Hoàng đế Charles khuyên Vua Lewis của Hungary nên câu giờ bằng cách ký một hiệp định đình chiến với quốc vương Ottoman - một lời khuyên đúng đắn, nếu Suleiman cũng có suy nghĩ tương tự, nhưng điều đó còn rất lâu mới xảy ra.
Vào ngày 6 tháng 2 năm 1521, Suleiman rời Constantinople để bắt đầu chuyến thám hiểm vĩ đại đầu tiên với một đội quân đầy đủ. Sự lên đường tham chiến của quốc vương luôn là một cảnh tượng hoành tráng - một cuộc biểu trưng quyền lực nhằm gây ấn tượng với các vị vua và hoàng đế khác khi họ hay tin từ các đại sứ của mình.
6.000 kị binh của đội cận vệ hoàng gia dẫn đầu đoàn rước. Họ cưỡi trên những con ngựa thuần chủng, phần yên ngựa và đồ trang trí lấp lánh dưới ánh mặt trời. Họ khoác lên người bộ trang phục nhung, lụa lộng lẫy và lấp lánh ánh vàng. Họ đeo cung trên vai, tay phải cầm một thanh kiếm ngắn, còn bên trái đeo tên và khiên.
Trên yên ngựa của họ có vắt một chiếc chùy, còn trên ngực họ có đeo một thanh đại đao được chạm nổi bằng đá quý. Những chiếc lông vũ màu đen bay phất phơ phía trên chiếc mũ đội đầu làm bằng vải bông màu xanh nhạt, nhưng lại không có mũ bảo hộ hay áo giáp giống nhiều hiệp sĩ Cơ đốc giáo đã bỏ mạng hoặc bị bắt làm tù binh.
Phía sau họ là các binh sĩ, tất cả đều ăn mặc trang nhã trong bộ quân phục cùng màu. Họ đội một chiếc mũ cao có nỉ buông thõng xuống phía sau và có gắn một chiếc lông vũ hoặc một vật hình chiếc thìa bên trên. Cả đoàn quân diễu hành trong im lặng.
Sau đó là tới các quần thần trong cung điện, cận vệ hoàng gia và lính bộ binh, trong tay họ có cầm nỏ cung. Lính giữ ngựa thì dắt những con ngựa lộng lẫy trong bộ dây cương lấp lánh. Họ đi trước Quốc vương, người đang cưỡi một một con chiến mã tuyệt đẹp trong những dịp như vậy. Suleinman mặc một chiếc áo choàng bằng lụa thêu, đội trên đầu một chiếc khăn xếp cao có đính kim cương và đá quý. Ba người đi theo ông, mang theo một chai nước, một chiếc áo choàng và một chiếc rương.
Ở phía sau là các hoạn quan phục vụ riêng cho quốc vương và cận vệ hoàng gia: hai trăm thanh niên được tuyển chọn từ các đại gia đình Ottoman hoặc chư hầu của quốc vương. Trên chiến trường, họ sẽ chiến đấu đến chết để bảo vệ Suleiman.
----------------
1Hội nghị Worms năm 1521 là hội nghị hoàng gia của Thánh chế La Mã do hoàng đế Charles V triệu tập và được tiến hành tại Thành phố tự do của Đế quốc Worms. Martin Luther đã được triệu tập đến hội nghị này để từ bỏ hoặc khẳng định lại quan điểm của mình nhằm đáp lại sắc lệnh của Giáo hoàng Leo X (BT)
André Clot/Bách Việt Books-NXB Dân Trí