Đây là lần đầu tiên, một kế hoạch bài bản về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt Việt Nam được trình cấp có thẩm quyền phê duyệt với hai mục tiêu lớn.
Một là, chuẩn bị sẵn sàng nhân lực đáp ứng công tác thiết kế, thi công và quản lý, khai thác, vận hành, bảo trì tuyến đường, đồng thời chủ động tiếp nhận, từng bước làm chủ từng phần công nghệ xây dựng, vận hành đường sắt, đặc biệt là đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị.
Hai là, tối đa hóa hiệu quả kinh tế - xã hội, giảm chi phí xây dựng và tạo việc làm cho hàng trăm ngàn lao động trong giai đoạn thi công, hàng chục ngàn lao động trong giai đoạn vận hành.
Cần phải nói thêm, cùng với chủ trương xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch nâng cấp 7 tuyến đường sắt hiện hữu và phát triển 9 tuyến đường sắt mới để hình thành mạng lưới đường sắt bao phủ và kết nối toàn quốc. Tại các đô thị, 28 tuyến đường sắt đô thị với tổng chiều dài hơn 1.100 km tại TP. Hà Nội và TP.HCM được quy hoạch xây dựng tới năm 2045. Các dự án này đều có quy mô vốn đầu tư rất lớn, yêu cầu cao về công nghệ, nên có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần rất lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chiến lược phát triển mạnh mẽ mạng lưới đường sắt tốc độ cao, đường sắt quốc gia và đường sắt đô thị như vậy đòi hỏi bổ sung nguồn nhân lực lớn cả giai đoạn xây dựng và giai đoạn khai thác, vận hành. Hơn nữa, do tính phức tạp về kỹ thuật, công nghệ, quy mô đầu tư của dự án đường sắt tốc độ cao, tất cả các quốc gia đã và đang đầu tư phát triển đường sắt tốc độ cao đều đặt quyết tâm chính trị mạnh mẽ ở cấp cao nhất, từ thể chế hóa quy định pháp luật, huy động nguồn vốn… đến đào tạo nhân lực, phát triển công nghiệp với mục tiêu và tầm nhìn dài hạn hàng trăm năm. Trong đó, việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ, phát triển công nghiệp và đào tạo nhân lực là một trong các yếu tố quan trọng đảm bảo quá trình đầu tư, vận hành, khai thác hiệu quả và từng bước đưa đường sắt tốc độ cao trở thành động lực phát triển của nền kinh tế.
Kinh nghiệm quốc tế từ Nhật Bản, Pháp, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc... cho thấy, việc xây dựng hệ thống đường sắt tốc độ cao đều được triển khai đồng thời với việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực bài bản từ sớm, tối thiểu từ 3 đến 4 năm trước khi khởi công dự án.
Trong khi đó, với Việt Nam, hiện tại, nhân lực đường sắt chỉ chiếm khoảng 3% tổng nhân lực lĩnh vực giao thông và không có sự biến động cả về chất lượng và số lượng do kết cấu hạ tầng đường sắt cơ bản không có đầu tư lớn trong một thời gian dài.
Trong bối cảnh nhiều dự án hạ tầng đường sắt đang được Chính phủ yêu cầu tăng tốc chuẩn bị đầu tư để có thể khởi công sau một thời gian rất ngắn nữa, việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho ngành đường sắt, trước mắt là thi công xây dựng hạ tầng, cơ khí đường sắt đang rất cấp bách.
Vì vậy, việc ban hành Đề án Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với những cơ chế, chính sách đặc thù, chưa từng có tiền lệ là rất cần thiết, đặc biệt là việc tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng các chuyên gia, kỹ sư về đường sắt đô thị, đường sắt tốc độ cao - các lĩnh vực mà số lượng nhân lực cả nước rất ít.
Cũng bởi vậy, cơ chế thúc đẩy hợp tác các bên Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp; xây dựng cơ chế, mô hình hợp tác công - tư để kết hợp nguồn ngân sách nhà nước và nguồn vốn tư nhân thông qua việc đặt hàng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt đang được kỳ vọng là chìa khóa để giải quyết vấn đề này.
Kinh nghiệm của Tập đoàn Đèo Cả trong việc chấp thuận trả tiền cho các đối tác Trung Quốc để các kỹ sư, thợ bậc cao được làm việc, thực chiến ngay trên công trường xây dựng đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị của nước bạn là một cách làm sáng tạo, chủ động. Đây cũng là mong muốn của hầu hết các doanh nghiệp xây dựng, bởi việc có đủ nhân lực chất lượng sẽ không chỉ đảm bảo tiến độ, chất lượng các công trình, mà còn quyết định đến sự thành công trong quá trình tiếp nhận, làm chủ công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp đường sắt hiện đại, tự chủ và bền vững.
Anh Minh