Ngăn thất thu, tăng minh bạch trong thu tiền khai thác khoáng sản
Việc cấp quyền khai thác khoáng sản lần đầu được quy định tại Luật Khoáng sản 2010. Sau hơn một thập kỷ áp dụng, nhiều bất cập đã nảy sinh, đặc biệt ở khâu tính toán và thu nộp tiền cấp quyền. Để khắc phục, Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 cùng Nghị định 193/2025/NĐ-CP được ban hành đã bổ sung nhiều quy định quan trọng, tạo thuận lợi hơn cho công tác quản lý và thực thi.
Ông Quách Đức Điệp, Phó Trưởng phòng Kinh tế địa chất, khoáng sản Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam. Ảnh: Sỹ Tùng
Tại hội nghị "Tuyên truyền, phổ biến Luật Địa chất và Khoáng sản số 54/2024/QH15 và các văn bản hướng dẫn thi hành" diễn ra ngày 21/8, ông Quách Đức Điệp, Phó Trưởng phòng Kinh tế địa chất, khoáng sản Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho hay, theo luật mới, “tiền cấp quyền khai thác khoáng sản” là khoản nghĩa vụ tài chính mà tổ chức, cá nhân phải nộp cho Nhà nước để được khai thác.
Điểm mới đáng chú ý đó là tiền được thu theo năm và quyết toán dựa trên sản lượng thực tế. Đồng thời, có 3 trường hợp được miễn nghĩa vụ này gồm: Thu hồi khoáng sản trong diện tích đất xây dựng công trình, chỉ phục vụ cho công trình đó; khai thác khoáng sản nhóm 3, nhóm 4 để phục vụ đóng cửa mỏ; thu hồi khoáng sản trong diện tích đất thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình, cá nhân để xây dựng công trình.
Về thẩm quyền, Nghị định 193/2025/NĐ-CP phân định rõ: Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm quản lý và quyết toán; Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền phê duyệt, điều chỉnh đối với khoáng sản nhóm 1, 2, 3, 4; còn Chủ tịch UBND cấp xã xử lý các trường hợp do xã cấp phép.
Một điểm thay đổi lớn nằm ở công thức tính tiền cấp quyền (Điều 132). Theo đó, thay vì phức tạp như trước, nay chỉ còn 3 yếu tố cốt lõi: Trữ lượng tính tiền, giá tính tiền và tỷ lệ thu tiền. Cách tính này vừa minh bạch hơn, vừa giảm bớt những biến số khó kiểm soát.
Cụ thể, với giấy phép khai thác khoáng sản nhóm 1, 2, 3 sẽ căn cứ vào trữ lượng trong giấy phép. Với nước khoáng, nước nóng thiên nhiên sẽ tính theo lưu lượng, thời gian khai thác (điểm mới). Với giấy phép nhóm 4 và tận thu sẽ dựa vào khối lượng ghi trong giấy phép. Với trường hợp thu hồi khoáng sản sẽ dựa trên giấy chứng nhận đăng ký do UBND cấp xã cấp.
Giá tính tiền (Điều 134) vẫn dựa trên giá tính thuế tài nguyên do UBND tỉnh ban hành, kèm hệ số quy đổi tại Phụ lục 4. Số tiền phải nộp được chia đều cho các năm khai thác và trong vòng 30 ngày kể từ khi cấp phép, cơ quan có thẩm quyền phải phê duyệt hoặc điều chỉnh (Điều 135).
Đáng chú ý, Nghị định mới còn siết chặt nghĩa vụ tài chính với trường hợp khai thác trái pháp luật. Dù hành vi vi phạm đã được xử lý và không thuộc diện tịch thu, doanh nghiệp vẫn phải nộp tiền cấp quyền theo công thức quy định. Quy định này nhằm chấm dứt tình trạng “lọt lưới” nghĩa vụ tài chính, bảo đảm công bằng và minh bạch trong quản lý khoáng sản.
Giấy phép khai thác cũ không còn “kẹt” nghĩa vụ tài chính
Một trong những điểm mới quan trọng của Nghị định 193/2025 là quy định rõ phương thức thu tiền cấp quyền đối với các giấy phép được cấp trước khi Luật Địa chất và Khoáng sản có hiệu lực nhưng chưa xác định trữ lượng, khối lượng hay thời hạn khai thác. Quy định này khắc phục tình trạng giấy phép cũ chỉ ghi “khai thác đến khi hết trữ lượng”, gây khó khăn cho việc tính nghĩa vụ tài chính.
Tăng kỷ cương trong khai thác khoáng sản: Minh bạch, công bằng, chấm dứt thất thu. Ảnh: Minh họa
Nghị định cũng làm rõ các trường hợp điều chỉnh tiền cấp quyền, gồm: Thay đổi trữ lượng hoặc khối lượng khai thác; thay đổi số lần nộp; hoặc khi giá tính tiền biến động quá 20% so với mức đã phê duyệt.
Phương thức nộp tiền về cơ bản giữ nguyên, nhưng bổ sung quy định: Nếu hoạt động khai thác buộc phải tạm dừng theo yêu cầu cơ quan chức năng và không do lỗi của doanh nghiệp, doanh nghiệp được tạm dừng nghĩa vụ nộp tiền cho đến khi hoạt động trở lại. Khi tái khai thác, doanh nghiệp phải báo cáo và nộp tiền trong vòng 30 ngày.
Một điểm mới khác là quy định cho phép gia hạn nộp tiền cấp quyền, áp dụng với tổ chức, cá nhân đủ điều kiện gia hạn nộp thuế theo quy định pháp luật. Bên cạnh đó, Điều 139 quy định 4 trường hợp phải quyết toán tiền cấp quyền, trong đó có: Định kỳ 5 năm, khi gia hạn hoặc điều chỉnh giấy phép, khi chuyển nhượng quyền khai thác và khi đóng cửa mỏ.
Phương thức quyết toán được tính dựa trên ba yếu tố: Sản lượng khai thác thực tế, giá tính tiền và tỷ lệ thu tiền cấp quyền của năm quyết toán. Chẳng hạn, nếu quyết toán năm 2024 thì áp dụng khung giá thuế tài nguyên do UBND tỉnh ban hành từ ngày 1/1/2024 và tỷ lệ thu tiền của cùng năm.
Riêng đối với mỏ khoáng sản trúng đấu giá, thay vì áp dụng hai công thức khác nhau như Luật Khoáng sản 2010, Nghị định mới quy định thống nhất: Giá khởi điểm chính là mức thu tiền cấp quyền. Tỷ lệ thu được xác định dựa trên số tiền trúng đấu giá và giá tính tại thời điểm phê duyệt kết quả, bảo đảm minh bạch hơn.
Ngoài ra, thời điểm quyết toán có thể lùi lại trong hai trường hợp: Chưa có giá tính thuế tài nguyên phù hợp; hoặc doanh nghiệp đang bị xem xét vi phạm pháp luật về khai thác và việc quyết toán chỉ được thực hiện sau khi có kết luận xử lý.
Nghị định mới đã quy định cụ thể cách xử lý số tiền cấp quyền khai thác khoáng sản nộp thừa hoặc thiếu sau quyết toán. Theo đó, trường hợp nộp thừa sẽ được xử lý theo pháp luật về thuế, có thể bù trừ vào nghĩa vụ nộp ngân sách hoặc các kỳ tiếp theo. Nếu số tiền đã nộp thấp hơn mức phải nộp, doanh nghiệp phải bổ sung trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận thông báo của cơ quan có thẩm quyền.
Hồ sơ quyết toán gồm: Văn bản đề nghị quyết toán theo mẫu số 04; bản kê khai thông tin theo mẫu số 05; báo cáo thống kê, kiểm kê khối lượng, trữ lượng khoáng sản khai thác trong kỳ. Các Sở Tài nguyên và Môi trường được khuyến nghị đưa thủ tục này vào quy trình giải quyết hồ sơ.
Thời hạn nộp hồ sơ là ngày 31/1 của năm sau kỳ quyết toán. Với giấy phép cấp trước khi Luật có hiệu lực, hạn cuối là ngày 30/9/2025. Hồ sơ nộp tại Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc UBND cấp xã (nếu thuộc thẩm quyền xã). Cơ quan quyết toán phải hoàn thành trong vòng 90 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Đặc biệt, đối với giấy phép khai thác cấp trước ngày 1/7/2025, việc quyết toán phải hoàn tất trước ngày 31/12/2026. Quy định này nhằm xử lý dứt điểm tình trạng hồ sơ tồn đọng do vướng mắc tài chính từ phía doanh nghiệp.
Những quy định mới không chỉ đảm bảo công bằng, minh bạch trong quản lý khoáng sản, mà còn tháo gỡ vướng mắc tồn đọng, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý thực hiện nghĩa vụ tài chính.
Luật Địa chất và Khoáng sản số 54/2024/QH15, cùng Nghị định số 193/2025/NĐ-CP và 7 Thông tư hướng dẫn thi hành là bộ công cụ pháp lý quan trọng nhằm hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng tiết kiệm và bền vững nguồn tài nguyên khoáng sản - một loại tài sản đặc biệt, hữu hạn và không thể tái tạo của quốc gia.
Nguyễn Hạnh