CCS mảnh ghép quan trọng trong chiến lược năng lượng Việt Nam

CCS mảnh ghép quan trọng trong chiến lược năng lượng Việt Nam
7 giờ trướcBài gốc
CCS mảnh ghép quan trọng trong chiến lược năng lượng Việt Nam
Phóng viên PetroTimes ghi một số phát biểu đáng chú ý tại hội thảo về những bước tiến để Việt Nam phát triển môi trường kinh doanh xanh, sạch và bền vững.
TS Trịnh Xuân Cường - Phó Trưởng ban Thăm dò Khai thác Petrovietnam:Petrovietnam song hành cùng các mục tiêu quốc gia về môi trường
TS Trịnh Xuân Cường - Phó Trưởng ban Thăm dò Khai thác Petrovietnam
Việt Nam, giống như nhiều quốc gia khác, đang phải đối mặt với những thách thức do biến đổi khí hậu gây ra. Chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thấp là điều cần thiết không chỉ để giảm thiểu những tác động này mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Chính phủ Việt Nam đang tích cực thực hiện các cải cách và đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau để đạt được tương lai trung hòa carbon. Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP26), Việt Nam đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, thúc đẩy sự thay đổi trong chiến lược năng lượng của chúng tôi để ưu tiên năng lượng tái tạo và các nguồn tài nguyên chuyển tiếp như khí đốt tự nhiên và hydro.
Petrovietnam là một tập đoàn nhà nước chịu trách nhiệm về các hoạt động dầu khí trong nước và quốc tế. Với hơn 60 năm kinh nghiệm, Petrovietnam đã thiết lập một mô hình kinh doanh toàn diện bao gồm toàn bộ chuỗi giá trị dầu khí, từ thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến và phân phối. Các lĩnh vực trọng tâm bao gồm thăm dò dầu khí, lọc dầu, hóa dầu, khí đốt, sản xuất điện và dịch vụ kỹ thuật. Phù hợp với cam kết của Việt Nam về mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, giảm phát thải khí nhà kính là một trong những mục tiêu chính của chúng tôi.
Để đạt được các mục tiêu về khí hậu của Việt Nam đòi hỏi các giải pháp công nghệ đa dạng. Là một tập đoàn năng lượng hàng đầu, Petrovietnam đi đầu trong các sáng kiến liên quan đến các nguồn năng lượng tái tạo, bao gồm điện gió ngoài khơi, amoniac xanh, hydro, địa nhiệt và năng lượng hạt nhân, cùng với thu hồi và lưu trữ carbon. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), thu hồi, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS) là một trong những giải pháp rất quan trọng đối với tăng trưởng bền vững trong nền kinh tế carbon thấp.
Nhật Bản đã đầu tư đáng kể vào nghiên cứu và phát triển các giải pháp quản lý năng lượng tái tạo và giảm khí carbon. Kinh nghiệm của Nhật Bản sẽ vô cùng quý giá khi chúng tôi thúc đẩy các sáng kiến CCS của mình. Hiện tại, Petrovietnam nói riêng và Việt Nam nói chung thiếu các quy định để triển khai và quản lý các dự án CCS tại Việt Nam. Tuy nhiên, chúng tôi đã nghiên cứu và tham khảo kinh nghiệm từ 5 quốc gia đã triển khai các dự án CCS là Nhật Bản, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Australia và Canada để xây dựng cách tiếp cận phù hợp với Petrovietnam. Nghiên cứu chung về CCS giữa Petrovietnam và Nhật Bản đã mang lại những kết quả đầy hứa hẹn trong việc đánh giá tính khả thi của các dự án CCS tại Việt Nam. Petrovietnam mong muốn hợp tác với chính phủ và các doanh nghiệp Nhật Bản để triển khai chiến lược CCS. Sự hợp tác này có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, bao gồm xây dựng khung pháp lý, đào tạo kỹ thuật, đầu tư và thu xếp vốn vào các dự án CCS, cũng như tham gia vào hoạt động giao dịch phát thải.
TS YAMAMOTO Koji - Giám đốc Kỹ thuật đơn vị Kinh doanh Năng lượng JOGMEC:Đẩy nhanh việc thiết lập môi trường kinh doanh cho CCS tại Việt Nam
TS YAMAMOTO Koji - Giám đốc Kỹ thuật đơn vị Kinh doanh Năng lượng JOGMEC
Hoạt động hợp tác về trung hòa carbon giữa Việt Nam và Nhật Bản có những nét tương đồng khi Thủ tướng Việt Nam và Thủ tướng Nhật Bản đều cam kết hướng tới mục tiêu đạt được mức trung hòa carbon vào năm 2050. Trong đó, sự cần thiết và lợi ích của CCS đối với carbon trung tính, thực hiện cách giảm phát thải bằng cách liên tục thu gom CO2 từ sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Đồng thời hỗ trợ cho các ngành công nghiệp trong nước khó giảm thiểu phát thải (thép, xi măng, lọc dầu…). Bởi vậy, lợi ích và sự cần thiết của các công nghệ thu hồi và sử dụng CO2 hiện có như: Nghiên cứu chung CO2 EOR - JOGMEC/Petrovietnam/JVPC (2012) là cực kỳ quan trọng.
Hiện nay, JOGMEC đang hợp tác với các nước ASEAN để đạt được sự trung hòa carbon. Theo đó, chúng tôi thực hiện các khóa đào tạo chuyển đổi năng lượng Indonesia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan. Chúng tôi cũng đã ký biên bản ghi nhớ với Petrovietnam về nghiên cứu chung CCS từ năm 2021. Petrovietnam và JOGMEC đã nghiên cứu để đạt được thương mại hóa CCS tại Việt Nam vào những năm 2030. Hiện nay, chúng tôi đang trong giai đoạn 2 (lựa chọn địa điểm căn cứ trên các đặc điểm thuận lợi nhất) để triển khai dự án thí điểm về CCS.
Theo thống kê của chúng tôi, chỉ tính riêng các công ty Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam thì nguồn CO2 đã rất lớn. Đơn cử như một số nhà máy nhiệt điện có mức độ phát thải 6-7 triệu tấn CO2/năm; Các nhà máy xi măng cũng phát thải 2-3 triệu tấn CO2/năm. Bởi vậy, ngay từ hội thảo đầu tiên về CCS tại Việt Nam vào tháng 10-2024, chúng tôi khẳng định sự cần thiết phải đẩy nhanh việc thiết lập môi trường kinh doanh cho CCS tại Việt Nam và tăng cường hợp tác giữa hai nước để khởi động một dự án CCS.
Thông qua hội thảo này, chúng tôi muốn trao đổi ý tưởng về khả năng khởi động một dự án CCS tại Nghi Sơn, Thanh Hóa trong tương lai.
KATO Ayato - Phó Tổng Giám đốc Phòng Dự án CCS (JOGMEC)
KATO Ayato - Phó Tổng Giám đốc Phòng Dự án CCS (JOGMEC): Hợp tác giải quyết thách thức về biến đổi khí hậu
Từ năm 2007, trong biên bản ghi nhớ đầu tiên được ký kết giữa Petrovietnam và JOGMEC đã xác định quan hệ đối tác chiến lược giữa hai bên. Đến năm 2017, hai bên nhất trí gia hạn biên bản ghi nhớ thêm 5 năm, bao gồm các lĩnh vực hợp tác mới. Hai bên đã nghiên cứu và thử nghiệm tại một số mỏ dầu về địa cơ học, phân tích độ ổn định của giếng khoan, độ ngập nước…
Vào tháng 11-2022, Petrovietnam và JOGMEC đã sửa đổi Biên bản ghi nhớ toàn diện để bổ sung CCS/CCUS vào các lĩnh vực hợp tác. Hai bên đã tiến hành nghiên cứu chung để đạt được mục tiêu thương mại hóa CCS tại Việt Nam vào những năm 2030.
Đến tháng 5-2025, nghiên cứu CCS chung của Petrovietnam - JOGMEC đã được triển khai tới giai đoạn 3 - tính toán đặc điểm địa điểm đặt cơ sở CCS. Qua 3 giai đoạn, hai bên đã nghiên cứu sàng lọc địa điểm CCS quy mô lớn tại các lưu vực bể Sông Hồng và bể Cửu Long; Việc lựa chọn địa điểm tại đây dựa trên dữ liệu địa chất, địa vật lý và các nghiên cứu cần thiết sau đây cho thương mại hóa CCS đã được tiến hành.
Việc lựa chọn địa điểm được thực hiện bằng cách so sánh tất cả các yếu tố sau cho từng khu vực gồm các yếu tố địa chất và cả yếu tố phi địa chất.
Từ tháng 2-2024 đến tháng 12-2025, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu khu vực Bắc Trung Bộ, lưu vực Sông Hồng ngoài khơi với nhiệm vụ chính: Lựa chọn và xác định đặc điểm địa điểm xây dựng chuỗi giá trị CCS đồng thời lập hồ sơ tiền khả thi về dự án thử nghiệm thí điểm bơm CO2 tại mỏ cạn kiệt trên bờ.
Chúng tôi cam kết cũng như tin tưởng sự kết hợp thế mạnh của Petrovietnam và JOGMEG sẽ giải quyết thách thức về biến đổi khí hậu bằng cách thúc đẩy các sáng kiến giảm phát thải carbon.
Ông Hoàng Văn Tâm - Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công, Bộ Công Thương
Ông Hoàng Văn Tâm - Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công, Bộ Công Thương:Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực CCS
Hiện nay, phát thải khí nhà kính lớn, chiếm trên 70% phát thải quốc gia. Nhiều năm qua, Nhà nước đã thực hiện tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính lĩnh vực năng lượng và công nghiệp như khuyến khích cải tiến quy trình sản xuất, tăng cường tái chế và sử dụng nguyên liệu tái chế, chuyển đổi sang nguồn năng lượng tái tạo, tăng cường hiệu quả năng lượng, khuyến khích sử dụng năng lượng sạch và thu hồi, lưu giữ và sử dụng carbon.
Bộ Công Thương đã ban hành Quy định về kiểm kê và MRV (đo đạc, báo cáo và thẩm định khí nhà kính) trong lĩnh vực năng lượng và công nghiệp (Thông tư số 38/2023/TT-BCT). Thực hiện MRV sẽ tăng tính minh bạch, khách quan thông qua cung cấp dữ liệu chính xác để định lượng phát thải thực tế. Mặt khác, hệ thống MRV bảo đảm độ tin cậy nên tăng cường sự tin tưởng giữa các bên tham gia (doanh nghiệp, nhà nước, quốc tế), đồng thời giảm thiểu gian lận trong giao dịch tín chỉ carbon để nhà nước quản lý hiệu quả hơn. Đây cũng là yếu tố bắt buộc trong các cơ chế quốc tế khi hệ thống MRV giám sát giảm phát thải khí nhà kính ở mọi cấp độ.
Mặt khác, cũng cần phải khẳng định rằng, quy định của pháp luật về lĩnh vực CCS đang cần thời gian để hoàn thiện. Hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể, cơ chế khuyến khích doanh nghiệp, cũng như chưa có đủ nguồn lực tài chính và kỹ thuật tương xứng triển khai ngành công nghiệp này tại Việt Nam. Chính vì vậy, tôi cho rằng, cần phải tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế song hành cùng việc hoàn thiện cơ chế chính sách và các hướng dẫn kỹ thuật cụ thể cũng như đào tạo, nâng cao năng lực cho địa phương và mạng lưới các chuyên gia, đơn vị tư vấn trong lĩnh vực CCS.
Tùng Phong
Nguồn PetroTimes : https://petrovietnam.petrotimes.vn/ccs-manh-ghep-quan-trong-trong-chien-luoc-nang-luong-viet-nam-729299.html