Đa phần sinh viên công nghệ sau khi ra trường chưa thể đáp ưng ngay yêu cầu làm vịec của doanh nghiệp.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng từng phát biểu: "Người Việt Nam có gien về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, rất hợp với ngành công nghiệp bán dẫn. Lợi thế về gien cũng không kém gì lợi thế về địa chính trị. Đây là lợi thế độc đáo không thể copy".
Hay TS. Nguyễn Khắc Lịch, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ, cũng khẳng định Việt Nam hoàn toàn có thể tự tin vào nguồn nhân lực và trong mục tiêu phát triển bán dẫn, không chỉ đủ phục vụ trong nước, mà còn có thể hướng tới cung cấp nhân lực cho khu vực và toàn cầu.
ĐỨT GÃY NGUỒN CUNG LAO ĐỘNG BÁN DẪN
Thực tế, không chỉ lãnh đạo Việt Nam mới đánh giá cao năng lực người Việt, ngay cả vị tỷ phú công nghệ có tầm ảnh hưởng nhất hiện nay, Jensen Huang, CEO của Jensen Huang cũng bày tỏ mong muốn thu hút những kỹ sư phần mềm, nhà nghiên cứu của Việt Nam.
Cơ hội cho Việt Nam còn nằm ở chỗ, trong khi ngành bán dẫn tăng trưởng khoảng 8 - 9% mỗi năm, thì nhân lực thế giới ngày càng không “mặn mà” với ngành nghề này. Tổng Giám đốc FPT Nguyễn Văn Khoa cho biết, tình trạng đứt gãy nguồn cung lao động trong ngành bán dẫn là có thật. Ngay cả tại Đài Loan, trung tâm bán dẫn hàng đầu thế giới, giới trẻ đa phần không làm ngành này bởi tính chất công việc đòi hỏi cao, cường độ lớn và nhiều áp lực.
Trong khi đó, Việt Nam đang sở hữu lực lượng nhân sự trẻ, chi phí cạnh tranh, nay càng được đẩy mạnh thông qua những chính sách mạnh mẽ về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để phục vụ ngành. Việt Nam đang thực sự nỗ lực để trở thành trung tâm nhân lực bán dẫn của thế giới. Trong 5 năm tới, mục tiêu đào tạo là đạt 50.000 kỹ sư, cử nhân trong lĩnh vực này và sẽ nhân đôi con số đó vào năm 2040.
ĐỂ SINH VIÊN MỚI RA TRƯỜNG CŨNG LÀ NHÂN VIÊN CÓ KINH NGHIỆM
Thế nhưng, dù được đánh giá là tiềm năng, hàng chục nghìn sinh viên khối ngành kỹ thuật công nghệ tốt nghiệp mỗi năm, đa phần chưa thể đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp ngay sau khi ra trường.
Ông Nguyễn Thanh Yên, Tổng giám đốc Công ty CoAsia Semi (Hàn Quốc) tại Việt Nam, thẳng thắn chỉ ra vấn đề cốt lõi: “Doanh nghiệp không cần sinh viên, họ cần nhân lực có kinh nghiệm, làm được việc ngay”.
“Một trong những nguyên nhân lớn là khoảng cách giữa nhà trường và doanh nghiệp. Trường đại học đào tạo ra sinh viên, trong khi doanh nghiệp lại cần nhân sự. Lý tưởng thì hai bên rất phù hợp, nhưng thực tế lại chưa tìm được điểm gặp. Doanh nghiệp không cần sinh viên, họ cần nhân lực có kinh nghiệm, làm được việc ngay”, ông Yên nói.
Nhưng nghịch lý ở chỗ, nếu sinh viên không được vào làm ở doanh nghiệp thì lấy đâu ra kinh nghiệm?
“Chúng ta cần một cơ chế kết nối để giải quyết nút thắt này, đó là một mô hình giúp doanh nghiệp sẵn sàng tiếp nhận sinh viên mới ra trường để đào tạo họ. Giải pháp theo tôi là: Nhà nước hỗ trợ trả lương cho sinh viên trong năm đầu tiên, còn doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm hướng dẫn, huấn luyện trong môi trường thực tế”, ông Yên gợi ý.
Ví dụ, nếu chi phí lương cho một sinh viên mới ra trường là 10.000 USD/năm, thì để có thêm 1.000 kỹ sư bán dẫn có kinh nghiệm, Nhà nước chỉ cần đầu tư khoảng 10 triệu USD/năm – con số không lớn nếu xét về tác động chiến lược. Với cơ chế này, mỗi năm Việt Nam có thể bổ sung 1.000 kỹ sư bán dẫn có tay nghề thực sự.
Bên cạnh đó, chuyên gia cũng chỉ ra một thực tế dù nhiều trường đại học đã mở ngành bán dẫn, nhưng chương trình đào tạo còn nặng tính lý thuyết, phụ thuộc vào thế mạnh cá nhân của giảng viên. Trong khi đó, nhu cầu thực tế từ doanh nghiệp lại đa dạng hơn, không chỉ thiết kế mà còn là kiểm tra, đóng gói, sản xuất thử,...
“Việc đào tạo nếu không xuất phát từ nhu cầu thực tế của doanh nghiệp thì rất khó tạo ra đội ngũ sẵn sàng làm việc ngay”, ông Nguyễn Thanh Yên nhấn mạnh.
Bài toán nhân lực vì thế không phải chỉ là chạy đua với con số – 50.000 kỹ sư đến năm 2030 hay 100.000 kỹ sư vào năm 2045, mà làm sao để 100% trong số đó làm được việc, đóng góp thực chất cho ngành bán dẫn Việt Nam và chuỗi giá trị toàn cầu.
Bạch Dương