Thông tin trên được Bộ Y tế nêu trong dự thảo đề án Phát triển y tế trường học.
Nhân lực y tế trường học còn rất thấp
Theo Bộ Y tế, bên cạnh những điều kiện thuận lợi, công tác y tế trường học phải đối mặt với nhiều thách thức mới. Trong đó, nhiều yếu tố mới phát sinh như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, mạng xã hội, trí tuệ nhân tạo, hành vi lối sống không có lợi cho sức khỏe... đã, đang và sẽ làm thay đổi mô hình bệnh tật trong trẻ em và học sinh.
Những vấn đề sức khỏe, bệnh tật truyền thống (bệnh tật học đường, suy dinh dưỡng, bệnh truyền nhiễm…) cũng chưa được khống chế.
Trong khi đó, nhiều vấn đề sức khỏe, bệnh tật mới phát sinh như thừa cân béo phì, bệnh không lây nhiễm, sức khỏe sinh sản, sức khỏe tâm thần và bạo lực học đường ở trẻ em và học sinh có xu hướng gia tăng.
Công tác y tế trường học phải đối mặt với nhiều thách thức mới. Ảnh minh họa: AI
Bộ Y tế dẫn báo cáo năm 2024 cho thấy số trường học có phòng y tế chiếm 82,5%, nhưng số phòng y tế bảo đảm điều kiện theo quy định thì rất thấp (khoảng 10%).
Số trường có cán bộ y tế trường học chiếm 61,5%. Số trường có nhân viên y tế trường học có chuyên môn y tế chiếm khoảng 27,3%.
"Có sự thiếu hụt rất lớn nhân lực làm về y tế trường học, ảnh hưởng đến hiệu quả chăm sóc và bảo vệ sức khỏe trẻ em, học sinh thời gian qua. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do chưa có chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ làm công tác y tế trường học", Bộ Y tế nêu.
Hiện, không ít trường hoàn toàn chưa có nhân viên y tế trường học, các vị trí này được giao cho giáo viên hoặc nhân viên khác kiêm nhiệm.
Cạnh đó, thiếu kinh phí triển khai cũng là vấn đề cần quan tâm. Hầu hết nguồn kinh phí dành cho triển khai hoạt động y tế trường học tại các trường là nguồn BHYT trích lại; không có kinh phí dành cho tập huấn, giám sát và triển khai các hoạt động chuyên môn.
Hiện nay, có khoảng 26.392 bếp ăn tại các cơ sở giáo dục mầm non và gần 5.000 trường tiểu học tổ chức bữa ăn bán trú. Tuy vậy, vẫn còn gần 40% số trường có bếp ăn tập thể, căng tin chưa đảm bảo yêu cầu an toàn thực phẩm.
Những vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra trong trường học do nhà trường ký hợp đồng với cơ sở chế biến suất ăn sẵn cho học sinh không đảm bảo an toàn thực phẩm, cung cấp thực phẩm vào nhà trường chưa rõ nguồn gốc.
Nhiều vấn đề sức khỏe ở học sinh gia tăng
Dự thảo đề án cũng chỉ ra rằng tỉ lệ cận thị ở học sinh đang tăng nhanh. Đơn cử tại Hà Nội, năm 1998 có 20,3% học sinh phổ thông bị cận, con số này đã tăng lên 65,3% vào năm 2019.
Một nghiên cứu trên 7.217 học sinh đại diện cho khu vực thành phố và nông thôn cho thấy tỉ lệ giảm thị lực của học sinh chiếm 34,8% và tăng dần theo bậc học (tiểu học là 23,2%, THCS là 36,7% và THPT là 43,8%).
Tỉ lệ học sinh bị cận thị chiếm 32,8%, viễn thị là 0,1%, loạn thị là 0,7%, tăng dần theo bậc học (tiểu học 21,6%, THCS 34,5% và THPT 41,9%), ở thành phố cao hơn so với nông thôn (42,4% so với 22,9%).
Ngoài ra, có hơn 60% học sinh tiểu học sâu răng, 80% trẻ em và học sinh bị viêm lợi và viêm quanh răng; 7,4% học sinh bị cong vẹo cột sống (năm 2019); khoảng 19% trẻ em từ 5-19 tuổi trên toàn quốc bị thừa cân, béo phì.
Việt Nam đối mặt với gánh nặng kép về tình trạng dinh dưỡng. Theo nghiên cứu năm 2019, bên cạnh tình trạng học sinh bị suy dinh dưỡng ở mức cao (13,9%), ở nông thôn hơn so với thành phố (tương ứng 18% và 9,9%), thì tỉ lệ thừa cân, béo phì cũng gia tăng nhanh (chiếm 20,6%), ở thành phố cao hơn nông thôn (25,5% và 15,6%).
"Thừa cân béo phì là nguy cơ gây tăng huyết áp, tăng cholesterol trong máu, tăng đường trong máu và các bệnh tim mạch ở học sinh", Bộ Y tế cho hay.
Bên cạnh đó, còn có sự gia tăng tỉ lệ mắc bệnh không lây nhiễm liên quan đến việc phơi nhiễm các yếu tố nguy cơ như: hút thuốc lá, sử dụng rượu bia, thiếu vận động thể lực, dinh dưỡng không hợp lý...
Hiện nay, hơn 54% học sinh ăn thức ăn nhanh ít nhất một lần mỗi tuần; gần 58% học sinh ăn rau và trái cây ít hơn 2 lần mỗi ngày; 34% học sinh uống đồ uống có ga 1 lần mỗi ngày; và chỉ khoảng 1/4 học sinh (24,1%) có hoạt động thể lực theo khuyến cáo.
Về sức khỏe tâm thần, điều tra sức khỏe học sinh 13-17 tuổi toàn quốc năm 2019 cho thấy tỉ lệ học sinh từng nghĩ đến việc tự tử trong 12 tháng là 15,6%. Năm 2019 đã có 3,1% học sinh thử tự tử 1 hoặc nhiều lần, dẫn đến sự cố chấn thương hoặc sốc thuốc.
Theo khảo sát sức khỏe tâm thần thanh thiếu niên của Viện Xã hội học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam năm 2022, tỉ lệ gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần ở trẻ em và vị thành niên Việt Nam chiếm gần 22%, trong đó 3,3% được chẩn đoán rối loạn tâm thần.
Bộ Y tế đề xuất nhiều mục tiêu nhằm giải quyết các vấn đề nêu trên, trong đó cần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về y tế trường học; phát triển và nâng cao năng lực hệ thống y tế trường học đáp ứng yêu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe học sinh...
Cụ thể, mục tiêu là đến năm 2030, tỉ lệ trường học có nhân viên làm công tác y tế (chuyên trách hoặc kiêm nhiệm) đạt 100%, trong đó, nhân viên làm công tác y tế trường học có trình độ từ trung cấp y trở lên đạt 50%.
Cũng đến năm 2030, tỉ lệ trường học tổ chức kiểm tra sức khỏe đầu năm học và khám sức khỏe định kỳ, thực hiện quản lý, theo dõi sức khỏe học sinh đạt 90%; tỉ lệ trường phổ thông tổ chức sàng lọc các yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm, rối loạn tâm thần cho học sinh đạt 30%.
THANH THANH