Chi tiết các bài báo cùng đăng trên một số của ứng viên PGS Nguyễn Tri Thức

Chi tiết các bài báo cùng đăng trên một số của ứng viên PGS Nguyễn Tri Thức
3 giờ trướcBài gốc
Vừa qua, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã đăng tải bài viết "Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Tri Thức là ứng viên PGS, nhiều bài báo trong nước đăng trên cùng 1 số", cung cấp một số thông tin về hoạt động khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Tri Thức - Thứ trưởng Bộ Y tế, kiêm điều hành Bệnh viện Chợ Rẫy - ứng viên phó giáo sư ngành Y học năm 2025.
Ngay sau khi bài viết đăng tải, nhiều độc giả ấn tượng về kết quả nghiên cứu khoa học của Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Tri Thức, đặc biệt là những công bố trên Tạp chí Y học Việt Nam/ISSN: 1859-1868.
Để cung cấp thêm thông tin cho độc giả, Tạp chí thống kê, tìm hiểu về mục tiêu nghiên cứu thể hiện ở một số bài báo khoa học đăng trên Tạp chí Y học Việt Nam của ứng viên phó giáo sư Nguyễn Tri Thức.
Giao diện website Tạp chí Y học Việt Nam/ISSN: 1859-1868. Ảnh chụp màn hình
Theo bản đăng ký xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư của Tiến sĩ Nguyễn Tri Thức (ký ngày 28/6/2025), ông đã công bố 56 bài báo khoa học, trong đó có 9 bài báo khoa học quốc tế (có 6 bài do ông là tác giả chính) và 47 bài báo khoa học trong nước (có 7 bài do ông là tác giả chính).
Trong 47 bài báo đăng trên tạp chí khoa học trong nước, có 6 bài được công bố trước khi ông Thức là tiến sĩ; 41 bài được công bố sau khi trở thành tiến sĩ (năm 2021). Các bài báo khoa học trong nước được đăng trên các tạp chí dưới đây:
Tính riêng từ sau khi ông Thức là tiến sĩ, có đến 33 bài báo đăng trên Tạp chí Y học Việt Nam/ISSN: 1859-1868.
Đáng chú ý, trên cùng một số trong một tập, hoặc số đặc biệt, chuyên đề của Tạp chí Y học Việt Nam, có nhiều bài đăng được thực hiện bởi ông Thức và các tác giả. Cụ thể trong bảng dưới đây:
Năm 2023, ứng viên có 13 bài đăng trên 4 tập của Tạp chí Y học Việt Nam
Theo tìm hiểu, năm 2023, ông Nguyễn Tri Thức có 13 bài đăng trên 4 tập khác nhau của Tạp chí Y học Việt Nam.
Trong đó, Tập 527 - Tháng 6 số Đặc biệt có tổng 6 bài. Cụ thể, bài “Khảo sát tình hình sử dụng nhóm thuốc SGLT-2i và DPP-4i trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại phòng khám nội tiết Bệnh viện Chợ Rẫy” (trang 256-263) gồm các tác giả: Nguyễn Tri Thức (Bệnh viện Chợ Rẫy), Phan Hữu Hên và Lâm Văn Hoàng (Khoa Nội tiết, Bệnh viện Chợ Rẫy) và Vũ Thị Thu Hồng (học viên cao học tại Bệnh viện Chợ Rẫy). Bài viết khảo sát việc sử dụng các thuốc thuộc nhóm SGLT2i, DPP4i trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú tại phòng khám Nội tiết, Bệnh viện Chợ Rẫy.
Bài “Khảo sát kiến thức về đái tháo đường và sử dụng insulin trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại phòng khám nội tiết Bệnh viện Chợ Rẫy: Tại thời điểm nhập viện và xuất viện” (trang 264-272) được thực hiện bởi Nguyễn Tri Thức, Phan Hữu Hên, Lâm Văn Hoàng và học viên cao học Huỳnh Tú Mẫn. Nghiên cứu này so sánh hiểu biết về bệnh và sử dụng insulin khi nhập viện và xuất hiện của bệnh nhân và xác định các yếu tố liên quan đến kiến thức của họ.
Bài “Khảo sát tình hình sử dụng thuốc điều trị đái tháo đường trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú và đánh giá kết quả điều trị sau 3 tháng tại bệnh viện đa khoa khu vực Củ Chi” (trang 273-280) gồm các tác giả: Nguyễn Tri Thức; Lâm Văn Hoàng, Phạm Hữu Hên và học viên cao học Nguyễn Thị Hoàng Thơ. Bài viết với mục tiêu khảo sát tình hình sử dụng thuốc điều trị đái tháo đường típ 2 và hiệu quả kiểm soát đường huyết sau 3 tháng.
Bài “Khảo sát sử dụng thuốc kháng giáp tổng hợp trên bệnh nhân cường giáp tại Bệnh viện Chợ Rẫy” (trang 281-289), nghiên cứu xác định tỷ lệ chọn lựa các loại thuốc điều trị cường giáp và hiệu quả điều trị do thuốc kháng giáp tổng hợp đem lại. Bài viết được thực hiện bởi của tác giả Nguyễn Tri Thức, Lâm Văn Hoàng, Phạm Hữu Hên và học viên cao học Hà Nguyễn Trâm Anh.
Bài “Khảo sát tình hình sử dụng và đề kháng kháng sinh trong điều trị nhiễm trùng trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 tại khoa nội tiết Bệnh viện Chợ Rẫy” (trang 290-296), gồm các tác giả Nguyễn Tri Thức, Lâm Văn Hoàng, Phạm Hữu Hên và học viên cao học Trần Nga Linh Phương. Mục tiêu của bài là khảo sát đặc điểm vi khuẩn gây nhiễm trùng bàn chân, tình hình sử dụng kháng sinh kinh nghiệm trong điều trị cho bệnh nhân và đánh giá tính hợp lý trong chỉ định kháng sinh kinh nghiệm so với kết quả kháng sinh đồ hoặc do với phác đồ Bệnh viện Chợ Rẫy 2016.
Như vậy, 5 bài báo kể trên đều do tác giả Nguyễn Tri Thức, Phan Hữu Hên, Lâm Văn Hoàng thực hiện cùng với 1 học viên cao học (mỗi bài 1 học viên cao học khác nhau).
Bài cuối cùng trong Tập này là“Dự phòng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch ở bệnh nhân nhập viện mắc bệnh lý tim mạch” (trang 304-311) thực hiện bởi các tác giả: Nguyễn Tri Thức, Trịnh Ngọc Thạnh, Trần Nguyễn Phương Hải (Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Chợ Rẫy) và Hoàng Văn Sỹ (Bộ môn Nội Tổng quát, Khoa Y, Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết khảo sát tình hình dự phòng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch ở bệnh nhân nằm tại Khoa Nội Tim mạch, Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 10/2021-5/2022.
9 tập của Tạp chí Y học Việt Nam có bài đăng của Tiến sĩ Nguyễn Tri Thức.
Tập 528 - Tháng 7 số Chuyên đề có 3 bài báo, trong đó có 1 bài do ông Thức là tác giả chính. Sắp xếp theo thứ tự bài đăng trong Tập này, đầu tiên ông Thức có bài “Đặc điểm của người bệnh suy thận mạn giai đoạn cuối trong danh sách chờ ghép thận tại Bệnh viện Chợ Rẫy”(trang 80-86) được thực hiện cùng 8 tác giả khác đến từ đơn vị Điều phối ghép các bộ phận cơ thể người.
Bài do ông Thức làm tác giả chính là “Ghép thận không tương hợp nhóm máu ABO: Từ ước mơ đến hiện thực trường hợp đầu tiên tại Bệnh viện Chợ Rẫy” (trang 254-260) thực hiện cùng 22 tác giả khác đến từ Bệnh viện Chợ Rẫy và Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Tập này còn có bài “Ghép thận từ người hiến tạng sau khi chết: trì hoãn chức năng thận ghép” (trang 261-267) thực hiện bởi 21 tác giả, trong đó có ông Nguyễn Tri Thức (Bệnh viện Chợ Rẫy), cùng các tác giả đến từ Bộ môn Tiết Niệu, Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và Phân môn Thận, Bộ môn Nội, Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Tập 529 - Số 1 có 2 bài, trong đó có 1 bài do ông Thức làm tác giả chính. Cụ thể:
Bài “Tối ưu hóa khoảng dẫn truyền nhĩ thất ở bệnh nhân đặt máy tạo nhịp hệ thống dẫn truyền” (trang 284-288) do ông Thức là tác giả chính, thực hiện cùng 2 tác giả gồm: Kiều Ngọc Dũng (Bệnh viện Chợ Rẫy) và Hoàng Anh Tiến (Trường Đại học Y Dược - Đại học Huế).
Còn bài “Ảnh hưởng của suy yếu lên kết cục lâm sàng ở bệnh nhân cao tuổi sau thay van động mạch chủ qua ống thông” (trang 80-84) được thực hiện bởi tác giả Nguyễn Tri Thức, Nguyễn Quang Minh, Lý Ích Trung (Bệnh viện Chợ Rẫy), Kiều Ngọc Dũng (Trường Đại học Y Dược - Đại học Huế), Phạm Hòa Bình và Võ Thành Nhân (Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh).
Tương tự, Tập 529 - Số 2 Tạp chí Y học Việt Nam xuất bản năm 2023 cũng có 2 bài báo được thực hiện bởi ông Thức, trong đó có 1 bài do ông làm tác giả chính, bao gồm:
Bài “Xoắn đỉnh tái diễn do ngộ độc cấp thạch tín trong thuốc bôi trĩ thảo dược”thực hiện bởi các tác giả: Nguyễn Tri Thức, Trần Lê Uyên Phương, Doãn Uyên Vy, Trần Cao Đạt và Kiều Ngọc Dũng (Bệnh viện Chợ Rẫy) và Nguyễn Vĩnh Phương (Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa).
Ông Nguyễn Tri Thức là tác giả chính của bàiCác kỹ thuật tối ưu hóa khoảng dẫn truyền nhĩ thất ở bệnh nhân đặt máy tái đồng bộ tim”. Bài viết còn có 3 tác giả khác cùng thực hiện, đến từ Trường Đại học Y Dược - Đại học Huế là: Kiều Ngọc Dũng, Hoàng Anh Tiến, Nguyễn Cửu Long.
Năm 2024, ứng viên có 7 bài đăng trên 2 tập của Tạp chí Y học Việt Nam
Theo thống kê, năm 2024, ứng viên phó giáo sư Nguyễn Tri Thức có 7 bài đăng trên 2 tập của Tạp chí Y học Việt Nam trong đó có 3 bài đăng ở Tập 534 - số 1B và 4 bài đăng ở Tập 536 - số Chuyên đề.
Trong 3 bài đăng ở Tập 534 - Số 1B, có 1 bài do ông Thức là tác giả chính, đó là "Hiệu quả ngắn hạn của liệu pháp tái đồng bộ tim ở bệnh nhân cao tuổi có suy tim phân suất tống máu giảm”, thực hiện cùng 3 tác giả khác gồm Kiều Ngọc Dũng (Trường Đại học Y Dược - Đại học Huế), Nguyễn Thanh Huân (Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh), Trần Cao Đạt (Bệnh viện Chợ Rẫy).
Bài thứ 2 trong Tập 534 - Số 1B là “Khả thi, an toàn và hiệu quả của máy tạo nhịp bó His” được thực hiện bởi các tác giả đến từ Bệnh viện Chợ Rẫy và Trường Đại học Y Dược - Đại học Huế.
Còn lại là bài “Nghiên cứu thay đổi chất lượng sống ở bệnh nhân đặt máy tái đồng bộ tim” nhằm đánh giá sự cải thiện chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân đặt máy tái đồng bộ tim. Bài được thực hiện bởi 4 tác giả, trong đó ông Nguyễn Tri Thức, Võ Thái Duy và Nguyễn Quốc Hoàng đến từ Bệnh viện Chợ Rẫy, Kiều Ngọc Dũng đến từ Trường Đại học Y Dược - Đại học Huế.
Trong 4 bài báo đăng ở Tập 536 - Số Chuyên đề Tạp chí Y học Việt Nam năm 2024, không có bài nào do ông Thức là tác giả chính. Đó là các bài:
Bài “Các dấu ấn cận lâm sàng trong tiên đoán rung nhĩ” thực hiện bởi 8 tác giả đến từ Bệnh viện Chợ Rẫy, Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Mắt Thành phố Hồ Chí Minh.
Bài “Rung nhĩ dưới lâm sàng” có 8 tác giả cùng thực hiện, trình bày khái niệm, tầm quan trọng và những khuyến cáo về quản lý rung nhĩ dưới lâm sàng dựa trên những bằng chứng y khoa trong thời gian gần đây. Các tác giả tham gia viết bài này đến từ Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Mắt Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Số này có bài “Đánh giá hiệu quả gói phòng ngừa viêm phổi liên quan tới thở máy tại khoa hồi sức ngoại thần kinh, bệnh viện chợ rẫy”do 9 tác giả cùng thực hiện, với mục tiêu giới thiệu cách tiếp cận đánh giá hiệu quả gói phòng ngừa viêm phổi liên quan đến thở máy tại Khoa Hồi sức ngoại thần kinh, Bệnh viện Chợ Rẫy để cải thiện tỷ lệ viêm phổi liên quan đến thở máy.
Cuối cùng là bài “Các hình thức thay huyết tương trong ghép thận không tương hợp nhóm máu ABO nhân 3 trường hợp đầu tiên tại Bệnh viện Chợ Rẫy gồm 8 tác giả đều đến từ Bệnh viện Chợ Rẫy.
Nửa năm 2025 có 7 bài đăng trên 2 tập, 3 số của Tạp chí Y học Việt Nam
Theo hồ sơ ứng viên, năm 2025, ông Thức cũng có 7 bài đăng trên 2 tập, 3 số của Tạp chí Y học Việt Nam/ISSN: 1859-1868.
Trong tập 548, Số 1, có 2 bài được thực hiện bởi ông Thức. Trong đó, một bài do ông là tác giả chính mang tên: “Phương pháp điều trị phá rung (ICD) ở bệnh nhân: Kinh nghiệm dài hạn từ một trung tâm”, 8 tác giả còn lại đến từ Bệnh viện Chợ Rẫy.
Bài An toàn và hiệu quả ngắn hạn của máy tạo nhịp hai buồng tim có chức năng chống ngất phản xạ” được thực hiện bởi tác giả Nguyễn Tri Thức (Thứ trưởng Bộ Y tế, Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy), Kiều Ngọc Dũng và Võ Thái Duy (Bệnh viện Chợ Rẫy), Đào Thị Thanh Bình (Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch).
Trong tập 551, Số 2, có 3 bài được ông thực hiện cùng các tác giả. Trong đó, bài“Rối loạn nhịp thất ở bệnh nhân có động mạch vành xuất phát bất thường: Nguyên nhân đột tử hay bệnh lý đồng mắc” gồm các tác giả Nguyễn Tri Thức (Thứ trưởng Bộ Y tế, Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy), cùng 4 tác giả khác đến từ Bệnh viện Chợ Rẫy.
Còn bài “Rối loạn nhịp thất từ buồng tống thất: Hiệu quả và an toàn khi triệt đốt qua catheter sử dụng hệ thống lập bản đồ giải phẫu điện học 3 chiều trong buồng tim" thực hiện bởi ông Thức, cùng 4 tác giả khác đến từ Bệnh viện Chợ Rẫy.
Ngoài ra, số này còn có bài “Đánh giá tính khả thi, an toàn thủ thuật và hiệu quả của tạo nhịp bó nhánh trái ở nhóm bệnh nhân đã từng có can thiệp van tim” được thực hiện bởi các tác giả Nguyễn Tri Thức (Thứ trưởng Bộ Y tế, Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy), Kiều Ngọc Dũng và Võ Thái Duy (Bệnh viện Chợ Rẫy), Đào Thị Thanh Bình (Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch).
Còn trong tập 551, Số 3, Thứ trưởng Bộ Y tế, Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy Nguyễn Tri Thức có tổng 2 bài báo khoa học, và đều là tác giả độc lập, bao gồm:
Bài “Đặc điểm lâm sàng và kết cục ngắn hạn trên bệnh nhân suy tim cấp có kèm hở van hai lá thứ phát nhập viện tại Bệnh viện Chợ Rẫy”, nghiên cứu nhằm xác định mối liên quan giữa mức độ hở van hai lá thứ phát và tử vong do mọi nguyên nhân hoặc tái nhập viện vì suy tim tại thời điểm 30 ngày sau nhập viện; và bài “Rối loạn nhịp thất ở bệnh nhân suy tim cấy ICD dự phòng nguyên phát”, nhằm xác định tỉ lệ rối loạn nhịp thất ghi nhận qua ICD ở bệnh nhân suy tim cấy ICD dự phòng nguyên phát, mô tả đặc điểm và phân tích yếu tố liên quan.
Theo thông tin trong hồ sơ ứng viên, từ tháng 8/2000 đến tháng 11/2019, ông Nguyễn Tri Thức từng đảm nhận các vị trí như: Bác sĩ khoa Nội tim mạch, Phó khoa Nội tim mạch, Phó Giám đốc Trung tâm Tim mạch Bệnh viện Chợ Rẫy, kiêm Phó Trưởng phòng Tổ chức cán bộ, kiêm Tổng Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy Phnom Penh (Campuchia), kiêm Trưởng khoa Điều trị Rối loạn nhịp - Trung tâm Tim mạch Bệnh viện Chợ Rẫy.
Từ tháng 11/2019 đến hết tháng 6/2024, ông Thức đảm nhận các vị trí như: Phó Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy, kiêm Phó Giám đốc Trung tâm Tim mạch, Trưởng khoa Điều trị Rối loạn nhịp; Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy; kiêm Phó Bí thư Đảng ủy khối cơ sở Bộ Y tế.
Tiến sĩ Nguyễn Tri Thức hiện là Đại biểu Quốc hội Khóa XV, Thứ trưởng Bộ Y tế và kiêm điều hành Bệnh viện Chợ Rẫy.
Bệnh viện Chợ Rẫy là bệnh viện hạng đặc biệt trực thuộc Bộ Y tế, đảm nhiệm chức năng khám chữa bệnh, đào tạo và nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, là bệnh viện tuyến cuối nên Chợ Rẫy còn có vai trò hỗ trợ điều trị cho các bệnh viện của khu vực phía Nam.
Mai Anh
Nguồn Giáo Dục VN : https://giaoduc.net.vn/chi-tiet-cac-bai-bao-cung-dang-tren-mot-so-cua-ung-vien-pgs-nguyen-tri-thuc-post254682.gd