1. Chuyện kể rằng, khi vua Hàm Nghi bị quân Pháp truy đuổi, ngài chạy ra Tân Sở, căn cứ kháng chiến của triều đình nhà Nguyễn ở vùng Cam Lộ - Quảng Trị. Từ đây, Chiếu Cần Vương được ban ra, lời hiệu triệu của một vị vua mới chỉ 14 tuổi, nhưng đã vang đến tận rừng sâu, nơi đồng bào Pa Cô còn đốt lửa giữa rẫy, lấy lưng chừng núi làm giường ngủ. Dân A Xợp khi ấy theo lệnh ông Vỗ Tên, tù trưởng được triều đình giao trấn thủ vùng biên. Người ta kể rằng, ông không phải quan, cũng không phải lính, nhưng chỉ cần đội cái mũ chàm, khoác cái áo vua ban, là cả vùng núi được an yên.
Chiếc áo vua ban nay được đặt vào tủ kính, phục vụ cho việc tham quan, tìm hiểu lịch sử.
Chiếc áo ba thân, màu ngà cổ, có thêu mây vờn và phượng múa, cổ áo có bốn chữ Hán. Theo ông Lê Đức Thọ, Phó Giám đốc Trung tâm Quản lý Di tích và Bảo tàng Quảng Trị, bốn chữ Hán này có nghĩa: “Vân Phụng Tiên Y”. Người Pa Cô không đọc được chữ Hán, nhưng họ nhìn vào mà hiểu: “Áo của núi trời, chỉ có người xứng đáng mới được mặc”.
Già Côn Khơi rót thêm rượu vào chiếc chén gỗ đẽo bằng tay. Lửa bếp nhảy nhót trên bức vách, hắt bóng ông lên vách nhà như một bức tượng rừng. Câu chuyện tiếp tục, lần này là về tù trưởng Côn Lôh, con trai ông Vỗ Tên. “Ông Côn Lôh không học chữ, không viết được tên mình. Nhưng giặc Pháp biết tên ông, mà sợ. Năm 1927, có mấy thằng lính Tây lên đỉnh Ărchong vẽ bản đồ. Chúng bắt dân cõng lên núi, đánh người già, xé váy phụ nữ. Chúng nó không biết Ărchong là chỗ ở của thần núi. Chúng nó cũng không biết là máu người Pa Cô sẽ đỏ hơn mặt trời nếu bị xúc phạm”, già Côn Khơi nhấp thêm ngụm rượu, đôi mắt chợt nhìn chằm chằm vào ngọn lửa.
Vào tháng 5 năm ấy, toán lính Tây có 4 tên, trong đó có một viên quan, dẫn theo dân phu lên đỉnh Ărchong để đo vẽ. Chúng bắt người dân nộp gà, heo, trâu; bắt thanh niên gùi gạo, cõng cáng. Đau hơn là chúng giẫm lên bãi cúng, bẻ gãy cột Khuh (cột thờ), làm ô uế nơi thiêng. Đỉnh núi linh hiển, người Pa Cô không bao giờ lên khi chưa cúng, nay bị báng bổ bởi gót giày ngoại bang. Và thế là máu đổ, toán lính chết không kịp thốt lời.
Hai tháng sau, Pháp cho thêm toán khác đến đo đạc, và thêm một lần nữa, ông Côn Lôh và người làng chặn đường máu, không cho kẻ ngoại xâm xâm phạm đỉnh thiêng. Lần này, ông biết chắc giặc sẽ trả thù. “Tôi là tù trưởng, là con ông Vỗ Tên. Cái áo cha tôi mặc để giữ lời vua, nay tôi mặc để giữ lời dân. Nếu cần chết để giữ Ărchong, tôi chết”, đó là câu nói cuối cùng của ông Côn Lôh, được người làng truyền lại. Quân Pháp lùng sục khắp vùng, bắn giết, đốt nhà. Có kẻ phản bội, chỉ điểm. Ông Côn Lôh cùng 7 người khác bị bắt, bị dẫn về Lao Bảo. Chúng chặt đầu ông, mang đi bêu ở bốt. Nhưng dân A Xợp không quỳ. Họ lặng lẽ thắp lửa cúng trời. Họ truyền áo Vân Phụng lại cho con trai ông - Ăm Păn, người sau này trở thành chiến sĩ cách mạng, đi kháng chiến chống Pháp rồi được gặp Bác Hồ ở Hà Nội.
2. Sau khi đầu người anh hùng bị treo ở nhà đày Lao Bảo, không ai trong làng A Xợp than khóc. Họ chỉ lặng lẽ đưa mắt lên Ărchong, nơi mây chưa bao giờ ngừng phủ, rồi âm thầm đào hang, giấu đi chiếc áo Vân Phụng Tiên Y. Áo không được gói trong vải, không đặt trong rương. Họ gấp nó lại như gấp một linh hồn, đặt vào giữa một phiến đá lõm bên sườn núi, rồi đắp đất, phủ lá rừng lên trên. “Người Pa Cô không chôn áo như chôn người, mà để áo thở cùng núi. Áo còn sống, thì lời thề giữ nước còn sống”, già Côn Khơi tiếp tục kể, giọng chậm rãi.
Ông Côn Khơi, trưởng dòng họ A Xợp bên gian thờ ông Vỗ Tên, tù trưởng Côn Lôh và những người đã khuất.
Vài năm sau đó, người ta đồn rằng cứ đến ngày giỗ ông Côn Lôh, ở sườn núi Ărchong lại nghe tiếng áo phất gió, dù không ai lên núi. Dù là truyền thuyết hay tưởng tượng, thì những đứa trẻ lớn lên ở A Xợp đều được dạy: áo ấy không chỉ là áo, đó còn là ngọn đuốc sáng giữ lấy khí phách của người Pa Cô. Chiến tranh lan rộng, kháng chiến bùng nổ. Người Pa Cô rời rẫy, vào chiến khu.
Trong sổ ghi công của xã Lìa, tên của ông Ăm Păn, con trai ông Côn Lôh, được ghi với ba lần bị thương và một lần được Bác Hồ bắt tay tại Hà Nội năm 1955. Người ta kể, ông Ăm Păn không nói nhiều, không đeo huy chương, nhưng trong một đêm trăng bên sông biên giới Sê Pôn giáp Lào, chạy dọc vùng Lìa, ông đã nhắc lại lời cha: “Nếu có chết, phải chết trên đỉnh Ărchong. Vì dưới đó, còn áo cha ta”.
3. Sau ngày đất nước thống nhất, chiếc áo lần nữa được mang ra khỏi hang. Đó là lần đầu tiên sau gần 50 năm, áo không nằm trong bóng tối nữa. Dòng họ A Xợp tổ chức lễ lớn, một lễ không ai ghi tên, không ai quảng bá, nhưng ai ở vùng cao Hướng Hóa cũng tìm về. Mỗi người mang theo một nắm muối, một quả bầu khô đầy rượu, và một nén nhang không tắt. Giữa sân nhà sàn, áo được bày ra. Những tua rua đa sắc rũ xuống như đuôi chim trĩ, những đường thêu vẫn sắc như đêm trăng rừng.
“Tôi không biết chữ, nhưng tôi nhìn áo mà nhớ lời cha. Chiếc áo này không thuộc về ai. Nó là của tất cả người Pa Cô giữ rừng, giữ nước, giữ lấy mình”, đó là giọng nói ấm, vang cả một góc núi rừng của ông Côn Thí, con trai ông Ăm Păn, trước khi mất năm 2018.
Ông Thí là người có gần 50 năm tuổi Đảng, từng tham gia kháng chiến chống Mỹ. Cả đời ông sống ở Lìa, không rời bản. Ông bảo, chức vụ hay bằng khen là của người đời ban, còn chiếc áo là tổ tiên trao. Người giữ áo không được ngạo mạn, cũng không được bán áo đi cho bảo tàng. Phải giữ như giữ danh dự, như giữ cột đá giữa suối, nơi dù dòng nước chảy bao nhiêu năm vẫn không xô ngã.
Những năm gần đây, người Pa Cô bắt đầu chia sẻ câu chuyện về chiếc áo với người ngoài. Học sinh về thực địa, sinh viên về tìm hiểu văn hóa, nhà báo, nhà sử học… ai đến cũng được ngồi, được nghe, được xem áo. Nhưng trước khi mở tủ, chủ nhà phải thắp một nén nhang và nói: “Tổ tiên ơi, hôm nay con cho khách xem áo, để họ hiểu vì sao mình còn sống mà không mất mình”. Chiếc áo hiện được trưng bày trong một tủ kính tại nhà bà Hồ Thị Âu (vợ ông Côn Thí), ở bản A Xợp, xã Lìa.
Ông Hồ Văn Thuần, cháu đời thứ tư của ông Vỗ Tên, hiện là Chủ tịch UBND xã A Dơi (sát xã Lìa), chia sẻ, ông luôn tự hào là người giữ bếp cho dòng họ. Mỗi khi có lễ cúng lớn, ông cẩn thận lấy chiếc áo ra, trải lên vải đỏ, đặt giữa gian thờ. Trẻ con đứng vòng quanh, không dám chạm, chỉ được nhìn. Người già thì ngồi sau lưng, vừa nhai trầu vừa kể chuyện cũ.
“Lũ nhỏ hay hỏi sao áo này không đem vô viện bảo tàng tỉnh. Tôi nói, áo không phải để trưng. Áo phải được sống trong nhà, giữa mùi khói củi, mùi áo mẹ, mùi rẫy mùa. Ai đem áo ra khỏi núi là mất vía”, ông Thuần bộc bạch, và cho biết, ở chợ A Dơi, từng có nhiều người ngỏ ý trả tiền, xin đưa áo về thành phố làm triển lãm. Họ nói sẽ bảo quản bằng tủ lạnh, bằng máy hút ẩm, bằng ánh sáng chuẩn quốc tế. Nhưng già Côn Khơi và tôi chỉ cười: “Mình không giữ áo bằng máy, mà giữ bằng lễ, bằng máu, bằng nước mắt cha ông”.
Người Pa Cô bây giờ vẫn sống trên núi, nhưng đã biết làm du lịch sinh thái, biết đón khách Tây, biết học đại học. Nhưng ở đâu đó, trong lễ bỏ mả, trong lễ dựng cột nêu, trong tiếng sáo lúc trăng lên hay trong bát rượu cần cuối đêm, người ta vẫn thì thầm về chiếc áo. Nó không chỉ là áo. Nó là một lời thề sống bằng máu và chết bằng danh dự.
Tôi chợt nhớ cách đây 5 năm, trong một chuyến công tác ngược lên miền núi, do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Trị tổ chức. Già Côn Khơi, lúc ấy từng nói với đoàn công tác, rằng người miền xuôi có tượng đài, có tên phố, có bia đá. Người Pa Cô không cần những thứ đó. Họ có chiếc áo. Chừng nào áo còn trong nhà, trong lòng, thì cái tên A Xợp không mất. Nghe vậy, một cán bộ nam đã đứng tuổi trong đoàn, chợt bật khóc. Ông khóc không phải vì câu nói, mà vì cái cách người già ấy nâng niu từng sợi chỉ áo như đang chạm vào tro cốt tổ tiên. Trong nền văn minh hiện đại, người ta dễ quên cội rễ, dễ bán ký ức để mua lấy tiến bộ. Nhưng ở vùng cao biên viễn này, giữa ngọn Ărchong gió hú và dòng suối chưa từng cạn, vẫn còn một dòng họ sống để giữ áo, sống để giữ mình.
Người Pa Cô không nhờ áo để sống vinh, mà họ sống tử tế để xứng với áo. Họ không lập đền thờ Côn Lôh, nhưng trong mỗi lễ cúng, luôn có phần gọi tên ông. Họ không dựng tượng vua Hàm Nghi, nhưng trong mỗi lần thắp nhang bên áo, đều dâng chén rượu tổ cho nhà vua, bên suối.
Chiều buông trên đỉnh Ărchong. Mây đọng thành chùm trên những rặng cây già. Tiếng mõ trâu xa dần về phía biên giới. Ở bản A Xợp, lửa bếp vừa được châm, tiếng mẹ ru con hòa vào tiếng máy xay xát lúa. Trên vách nhà sàn, chiếc áo Vân Phụng Tiên Y vẫn treo yên như chưa từng già đi. Có lẽ, áo sẽ còn ở đó cho đến tận cùng. Vì còn áo, là còn người. Còn người, là còn núi. Và còn núi Ărchong, là còn một dân tộc biết ngẩng đầu giữa giông bão.
Thanh Bình