Sau những thắng lợi vang dội ở Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định đẩy mạnh tiến công xuống duyên hải Nam Trung Bộ, trong đó Bình Định là một vị trí chiến lược quan trọng.
Chiến dịch Giải phóng Bình Định mùa xuân năm 1975 (Ảnh: Trung tâm lưu trữ lịch sử tỉnh Bình Định)
Khi chủ quan thành bản án tử của quân VNCH
Đầu tháng 3/1975, tại Tổng hành dinh Quân đoàn II của quân đội Việt Nam Cộng hòa (VNCH) ở Pleiku, một cuộc họp khẩn diễn ra dưới sự chủ trì của tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân đoàn II, với sự tham gia của các sĩ quan cấp cao trong vùng.
Báo cáo tình báo cho biết quân Giải phóng đang đẩy mạnh tấn công ở Tây Nguyên, đặc biệt là tại Buôn Ma Thuột. Một số sĩ quan lo ngại rằng nếu mất Tây Nguyên, quân Giải phóng có thể đánh thẳng xuống Bình Định. Tuy nhiên, Phú khoát tay gạt đi:
"Mất Buôn Ma Thuột không phải là hết. Bình Định có hệ thống phòng thủ mạnh. Chúng ta còn cả Quy Nhơn, Phù Cát, và lực lượng tiếp viện từ Quân đoàn III nếu cần. Việt Cộng không dễ mà đánh vào đây!"
Một sĩ quan tham mưu dè dặt hỏi: "Thưa tư lệnh, nếu địch đánh từ Tây Nguyên xuống, liệu ta có giữ được An Khê không?"
Phú cười khẩy, tự tin đáp: "An Khê là cánh cửa vào Bình Định, nhưng có ai thấy Việt Cộng mang xe tăng đi xuyên rừng chưa? Chúng không thể tiến nhanh như vậy! Ta cứ giữ vững các đô thị lớn là đủ!"
Với nhận định đó, Quân đoàn II quyết định không tăng cường lực lượng cho tuyến phòng thủ phía tây Bình Định. Họ tập trung quân ở các thành phố lớn như Quy Nhơn, Phù Cát, An Nhơn và Hoài Nhơn, đồng thời tin rằng quân Giải phóng sẽ phải mất nhiều tháng mới đủ sức đánh vào khu vực này.
Quân giải phóng tấn công cứ điểm Gò Loi, huyện Hoài Ân, Bình Định (Ảnh: Trung tâm lưu trữ lịch sử tỉnh Bình Định)
Cùng thời điểm, tại Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa ở Sài Gòn, tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng, nhận được báo cáo tình hình Tây Nguyên ngày càng xấu đi. Trong cuộc họp với các sĩ quan cao cấp, một số người đề nghị điều quân tăng viện cho Bình Định, nhưng Viên lắc đầu:
"Tây Nguyên mới là nơi đáng lo. Bình Định còn nguyên lực lượng, có hải quân, không quân yểm trợ. Mất Tây Nguyên không có nghĩa là mất luôn duyên hải. Đừng hoảng loạn!"
Lúc đó, tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh Quân đoàn III, cũng đồng ý: "Chúng ta không thể cứ chạy theo Việt Cộng mãi. Nếu họ xuống Bình Định, ta có thể phản kích, tái chiếm dễ dàng."
Những nhận định chủ quan này đã khiến quân đội Sài Gòn không có kế hoạch phòng thủ chiều sâu, không dự phòng phương án rút lui có tổ chức và hoàn toàn không lường trước được chiến lược của quân Giải phóng.
Diễn biến chiến dịch giải phóng tỉnh Bình Định. (Ảnh: Trung tâm lưu trữ lịch sử tỉnh Bình Định)
Sư đoàn 22 ngụy được giao trọng trách giữ vững Bình Định. Dưới sự chỉ huy của Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, chúng dựng lên một hệ thống phòng thủ kiên cố từ Quy Nhơn, An Nhơn cho đến Phù Cát. Các tuyến phòng ngự được gia cố bằng công sự bê tông, lô cốt kiên cố, bãi mìn dày đặc. Phía biển, chúng có hạm đội sẵn sàng yểm trợ pháo binh. Trên trời, không quân có thể xuất kích từ sân bay Phù Cát.
Tuy nhiên, điều mà Thọ không ngờ đến là việc y cố thủ Bình Định không khác gì tự nhốt mình vào một cái bẫy chết chóc.
Trong khi đó, quân Giải Phóng đã nắm rõ nhược điểm của tuyến phòng thủ này: Các căn cứ dàn trải nhưng không có lực lượng phản ứng nhanh, dẫn đến tình trạng bị cô lập khi bị đánh úp; Quân số tinh nhuệ bị chia cắt, chỉ còn lại một bộ phận nhỏ chủ lực và phần lớn là bảo an, dân vệ thiếu tinh thần chiến đấu; Phụ thuộc vào tiếp tế từ Sài Gòn, trong khi đường tiếp tế bị quân ta cắt đứt dần.
Trong các cuộc họp mật, một số sĩ quan ngụy lo sợ Bình Định sẽ thất thủ như Tây Nguyên. Nhưng Chuẩn tướng Thọ vẫn hoang tưởng: “Chúng ta có pháo hạm, có máy bay, có quân số gấp đôi! Địch muốn đánh vào Bình Định? Chúng sẽ phải trả giá đắt!”
Y không hề biết rằng, quyết định bám trụ của mình đã vô tình biến Bình Định thành một nấm mồ khổng lồ chờ chôn vùi toàn bộ quân ngụy tại đây.
Chiến dịch “3 quả đấm” giải phóng Bình Định
Lực lượng ta do Quân khu 5 chỉ đạo chiến dịch với sự tham gia của các đơn vị chủ lực gồm: Sư đoàn 3 Sao Vàng – Đơn vị thiện chiến, từng lập nhiều chiến công tại Khu 5; Sư đoàn 2 – Được điều động từ Quân khu 5 để tăng cường sức mạnh tấn công; Sư đoàn 968 – Vừa hoàn thành nhiệm vụ tại Lào, được điều vào hỗ trợ chiến dịch cùng các đơn vị đặc công, biệt động, pháo binh và du kích địa phương.
Tư liệu chiến lược về các cuộc chiến đấu của quân và dân Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ.
Tướng chỉ huy chiến dịch gồm: Trung tướng Chu Huy Mân – Tư lệnh Quân khu 5, chỉ huy chung chiến dịch; Thiếu tướng Nguyễn Chánh – Chính ủy Quân khu 5, phụ trách công tác chính trị và hậu cần; Thiếu tướng Lê Trọng Tấn – Phó Tổng Tham mưu trưởng, trực tiếp theo dõi và chỉ đạo các hướng tiến công quan trọng; Các chỉ huy cấp sư đoàn chỉ đạo các mũi tiến công cụ thể.
Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã phân tích kỹ chiến lược của quân VNCH và tìm ra những điểm yếu chí mạng: Địch đang hoảng loạn sau khi thua ở Tây Nguyên; Tuyến phòng thủ của địch có kẽ hở, tập trung ở đô thị nhưng bỏ trống tuyến đường huyết mạch; Chúng chủ quan, nghĩ rằng quân ta cần thời gian để củng cố trước khi tấn công.
Từ đó, Bộ Tư lệnh quyết định đánh nhanh, đánh mạnh, đánh từ ba hướng, không để địch có cơ hội phản công.
Ba mũi tiến công quan trọng bao gồm: Quả đấm thứ nhất – Tấn công từ phía Bắc: Quân ta từ Quảng Ngãi đánh xuống Hoài Nhơn, chọc thủng phòng tuyến đầu tiên của VNCH. Quả đấm thứ hai – Đột kích từ phía Tây: Các đơn vị chủ lực từ Tây Nguyên tiến xuống theo đường 19, tiêu diệt quân địch ở An Khê và cắt đứt tuyến tiếp viện từ Tây Nguyên ra Bình Định. Quả đấm thứ ba – Tấn công từ phía Nam: Quân ta từ Phú Yên tiến lên, khóa chặt Quy Nhơn, chặn đường rút lui của quân địch ra biển.
Mục tiêu là dồn quân VNCH vào thế bị bao vây hoàn toàn – không có viện binh, không có đường rút lui.
Dân công Bình Định mở đường phục vụ chiến dịch Xuân 1975 (Ảnh: Trung tâm lưu trữ lịch sử tỉnh Bình Định)
Đêm 24/3/1975, lệnh tiến công được ban ra. Tiếng pháo gầm rít trên bầu trời khi Sư đoàn 3 Sao Vàng dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Nguyễn Chánh mở đường tiến vào Bồng Sơn. Địch co cụm kháng cự quyết liệt, nhưng trước những loạt tấn công như vũ bão, chúng lần lượt gục ngã.
Ngày 26/3/1975, quân ta từ Quảng Ngãi mở cuộc tấn công vào Hoài Nhơn. Đây là vị trí chiến lược mà VNCH tin rằng có thể cầm cự lâu dài.
Tuy nhiên, do chủ quan, lực lượng phòng thủ tại đây quá mỏng. Chỉ sau 48 giờ giao tranh, Sư đoàn 22 Bộ binh VNCH bị đánh tan, quân ta kiểm soát toàn bộ Hoài Nhơn.
Khi nhận tin này, tướng Phú tái mặt, thốt lên trong cuộc họp khẩn với các chỉ huy: “Sao có thể mất Hoài Nhơn nhanh vậy?! Chẳng lẽ chúng đánh từ ba hướng sao?”
Nhưng lúc này, đã quá muộn.
Ngày 26/3, Bồng Sơn và Hoài Nhơn hoàn toàn giải phóng. Quốc lộ 1A bị cắt đứt, khiến địch ở Quy Nhơn rơi vào thế cô lập. Cùng lúc đó, quân ta từ Tây Nguyên tràn xuống theo đường 19, đột kích vào An Khê – cứ điểm phòng thủ trọng yếu.
Ngày 28/3, quân ta đánh bại quân địch tại đây, chiếm An Khê, cắt đứt con đường huyết mạch giữa Tây Nguyên và Bình Định. Không để địch kịp phản công, Trung tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy Sư đoàn 2 mở cuộc tiến công quyết liệt vào Phù Mỹ và Phù Cát.
Ngày 28/3, sư đoàn 2 sau 12 giờ chiến đấu đã làm chủ Phù Mỹ.
Ngày 29/3, dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Nguyễn Chánh, các đơn vị pháo binh và bộ binh tiến công dữ dội, biến sân bay Phù Cát thành một biển lửa, triệt hạ hoàn toàn sức mạnh không quân của địch tại Bình Định.
Một sĩ quan VNCH tuyệt vọng báo cáo với tướng Phú: “Thưa tư lệnh, ta không còn đường rút! Việt Cộng đang đánh từ ba phía, quân ta mất tinh thần rồi!”
Lúc này, Bình Định hoàn toàn bị cô lập.
Giữa trưa 30/3, Trung tướng Chu Huy Mân ra lệnh tổng công kích Quy Nhơn: “Đánh nhanh, đánh mạnh, không để địch kịp trở tay!”. Cánh quân phía Nam từ Phú Yên đánh vào Quy Nhơn, giáng cú đấm cuối cùng vào hệ thống phòng thủ của VNCH.
Thiếu tướng Lê Trọng Tấn chỉ huy Sư đoàn 2 đánh vào cửa ngõ phía Nam Quy Nhơn. Thiếu tướng Nguyễn Chánh dẫn đầu Sư đoàn 3 Sao Vàng đánh vào trung tâm thành phố. Lực lượng biệt động thành tổ chức đánh chiếm cảng Quy Nhơn, cắt đứt đường tháo chạy của địch.
Lực lượng địch nhanh chóng rơi vào hỗn loạn, tàn quân tìm cách rút ra biển. Tuy nhiên, hải quân VNCH không thể di tản toàn bộ, khiến hàng ngàn binh sĩ bị bỏ lại và buộc phải đầu hàng.
Ngày 31/3/1975, quân ta tiến vào Quy Nhơn, hoàn toàn làm chủ Bình Định.
Chiến lược “Ba quả đấm” đã phát huy hiệu quả tối đa, đánh vào chính điểm yếu của quân địch: Chia cắt lực lượng địch: Đánh từ ba hướng khiến địch không kịp xoay trở, nhanh chóng tan rã; Đánh đúng điểm yếu: Địch tập trung quân ở đô thị, trong khi ta tấn công vào các tuyến tiếp viện và đường rút lui, làm chúng rơi vào thế bị động.
Thời gian nhanh chóng: Chỉ trong 5 ngày (từ 26/3 đến 31/3/1975), toàn bộ Bình Định được giải phóng, không cho địch cơ hội phản công.
Tướng Phạm Văn Phú, người từng tự tin giữ Bình Định bằng “lá chắn thép”, cuối cùng phải cay đắng chứng kiến sự sụp đổ nhanh chóng của quân đội mình. Sau thất bại thảm hại ở Quy Nhơn, quân địch không còn đường lui. Lực lượng quân giải phóng nhanh chóng quét sạch tàn quân, giải phóng toàn bộ Bình Định.
Ngày 1/4/1975, Bình Định hoàn toàn sạch bóng quân thù. Nhân dân tràn ra đường, vẫy cờ chiến thắng.
Sai lầm lớn nhất của quân ngụy là đánh giá thấp sức mạnh quân giải phóng, và tự huyễn hoặc mình rằng có thể giữ vững Bình Định. Nhưng chúng đã sai.
Trận chiến này không chỉ là một thất bại đơn thuần – nó làm sụp đổ hoàn toàn chiến lược phòng thủ miền Trung của quân VNCH. Địch không chỉ mất Bình Định, mà còn mở đường cho quân giải phóng tiến thẳng vào Phú Yên, Khánh Hòa, quét sạch quân ngụy khỏi vùng duyên hải.
“Chúng ta có máy bay, có pháo hạm, có lô cốt kiên cố! Việt Cộng mà muốn chiếm Bình Định? Đừng hòng!”– Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh, phát biểu tại cuộc họp ngày 15/3/1975
Những lời tuyên bố mạnh miệng đó đã trở thành sự mỉa mai cay đắng chỉ hai tuần sau đó, khi Bình Định thất thủ nhanh chóng. Sai lầm chiến lược, sự chủ quan của chỉ huy và tinh thần bạc nhược của binh lính Sài Gòn đã biến một phòng tuyến tưởng như "bất khả xâm phạm" trở thành mồ chôn tập thể của quân địch.
Quân dân Quy Nhơn tưng bừng trong ngày Giải phóng. (Ảnh: Trung tâm lưu trữ lịch sử tỉnh Bình Định)
Chiến lược “Ba quả đấm” trong Chiến dịch giải phóng Bình Định là một minh chứng cho sự sáng suốt của quân Giải phóng trong việc đánh giá tình hình và triển khai chiến thuật hợp lý. Đây không chỉ là một trận chiến thắng lợi về quân sự mà còn thể hiện sự nhạy bén, linh hoạt trong chiến lược tổng tiến công mùa Xuân năm 1975.
Tối 30/3, Lãnh đạo vào nhân dân Bình Định long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng tỉnh nhà.
Thay mặt Đảng bộ và nhân dân Bình Định, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bình Định Hồ Quốc Dũng bày tỏ: “Chiến thắng ngày 31/3 giải phóng Bình Định là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần bất khuất, là bản anh hùng ca tuyệt vời về đức hy sinh cao cả, ý chí cách mạng kiên cường của quân và dân ta; là kết quả của đường lối và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh tài tình của Đảng ta; là kết quả của cuộc tiến công thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng của các lực lượng vũ trang nhân dân; của sự nổi dậy mạnh mẽ, quyết liệt, rộng khắp của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh; góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975, đưa cuộc trường chinh đầy hy sinh gian khổ vì độc lập, tự do của Tổ quốc đi đến thắng lợi cuối cùng”.