Chiến sỹ Thành cổ Quảng Trị kể chuyện 81 ngày đêm của 'mùa hè đỏ lửa'

Chiến sỹ Thành cổ Quảng Trị kể chuyện 81 ngày đêm của 'mùa hè đỏ lửa'
3 giờ trướcBài gốc
Năm 1971, cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta bước vào giai đoạn mới. Ngày 23/3/1972, Bộ Chính trị phê chuẩn kế hoạch cuộc tiến công chiến lược, chọn Trị - Thiên làm hướng chủ yếu, cùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên phối hợp.
Bằng đòn tiến công ấy, ta đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, tạo nên một đòn giáng mạnh, buộc Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải lúng túng đối phó.
Ông Nguyễn Như Hoành (bên trái) và ông Nguyễn Thanh Tân cùng nhau ôn lại ký ức về những ngày tháng khốc liệt trên chiến trường.
Với mục tiêu bằng mọi giá, tái chiếm Quảng Trị để cân bằng thế trận, từ 28/6/1972, địch huy động lực lượng hùng hậu mở cuộc phản công ác liệt. Trước thử thách sinh tử ấy, quân và dân ta bước vào 81 ngày đêm giữ thị xã và Thành cổ Quảng Trị - một trong những cuộc đọ sức quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Cùng với hàng vạn chiến sỹ cả nước, đầu năm 1972, ông Nguyễn Như Hoành (SN 1953, quê ở xã Cẩm Vịnh, huyện Cẩm Xuyên cũ - nay là xã Cẩm Bình, hiện trú tại TDP Tây Yên, phường Thành Sen) và ông Nguyễn Thanh Tân (SN 1953, quê xã Thạch Tân, huyện Thạch Hà cũ - nay là phường Hà Huy Tập, hiện trú tại TDP 3, phường Hà Huy Tập) lên đường vào chiến trường Quảng Trị tham gia chiến đấu.
Hơn 50 năm trôi qua, nhưng ông Nguyễn Như Hoành vẫn nhớ như in 81 ngày đêm đầy gian khổ, khốc liệt dưới mưa bom, bão đạn của "mùa hè đỏ lửa" năm 1972.
Đầu tháng 7/1972, chỉ chưa đầy 2 tháng huấn luyện quân sự “thần tốc” tại xã Kỳ Thượng (huyện Kỳ Anh cũ), ông Hoành được biên chế vào Trung đoàn 18 - Sư đoàn 325 (tiền thân của Quân đoàn 2), hành quân vào Quảng Trị. Đơn vị của ông đến khu vực Ngã ba Sòng (phía Bắc thị xã Đông Hà, Quảng Trị) vào giữa tháng 7/1972. Cảnh tượng hoang tàn, đổ nát báo hiệu một cuộc chiến sinh tử, khốc liệt.
“Chỉ cách sông Thạch Hãn 20km mà phải mất 3 ngày 3 đêm chúng tôi mới đến được bờ sông vì địch điên cuồng đánh chặn. Khi đang kết bè vượt sông thì đơn vị của tôi bị địch phát hiện, tập kích, đồng chí tiểu đoàn trưởng, chính trị viên cùng nhiều chiến sỹ hy sinh ngay khi chưa kịp bắt đầu trận đánh chính thức. Chúng tôi khi ấy mới mười chín, đôi mươi, gần như chưa có kinh nghiệm chiến trận nhưng tất cả đều động viên nhau giữ vững tinh thần, tiếp tục tiến lên…” - ông Hoành nhớ lại.
Những bức ảnh chụp vội nơi chiến trường được các 2 ông cất giữ cẩn thận.
Mỗi ngày, địch đánh 7 - 8 trận, bằng những loại vũ khí tối tân, hiện đại nhất. “Anh em chiến sỹ bám vào từng bờ tường, từng ụ gạch để chiến đấu. Người trước ngã xuống, người sau tiến lên. Có đồng chí quê miền Bắc vừa hy sinh thì 5 ngày sau, em trai ruột cũng ngã xuống trong Thành cổ. Có những khi xuồng cứu thương vừa chở thương binh ra giữa sông đã bị bom đánh chìm, cả thương binh lẫn người cứu thương đều hy sinh, chúng tôi đứng bên thành cổ nhìn sang mà ruột gan quặn thắt” - ông Hoành nghẹn ngào.
Hiểm nguy vì bom đạn, đời sống sinh hoạt cũng thiếu thốn, gian khổ vô cùng. Vì phải bỏ lại ba-lô, chỉ mang vũ khí vào thành nên một bộ quân phục mặc suốt mấy tháng. Bom đạn khiến quần áo rách tả tơi; bùn đất, khói súng phủ kín mặt người.
Nguồn nước ô nhiễm nặng; lượng thuốc khử khuẩn được cấp phát không đủ dùng nên nhiều khi, các chiến sỹ đành uống nước bẩn. Lương khô và gạo sấy là những loại lương thực chủ yếu tiếp sức cho cán bộ, chiến sỹ trong những ngày tháng gian khổ đó.
Đơn vị pháo binh của ông Tân góp phần quan trọng bám giữ Thành cổ Quảng Trị năm 1972.
Còn ông Nguyễn Thanh Tân là chiến sỹ pháo binh thuộc Trung đoàn 164 - Quân khu Trị Thiên (Đoàn Pháo binh Bến Hải). Dù không phải trực tiếp bám trụ trong Thành cổ nhưng nhiệm vụ trinh sát trận địa, đo đạc phần tử, điều chỉnh pháo yểm trợ từ vòng ngoài của đơn vị cũng vô cùng hiểm nguy, gian khổ. Hằng ngày, ông Tân phải cùng đồng đội trèo lên các điểm cao, quan sát trận địa giữa bom đạn rình rập; có thể trở thành mục tiêu của địch bất cứ lúc nào.
“Càng về sau, chiến sự càng ác liệt, ta và địch kìm nhau từng mét đất trên chiến hào. Ta giữ vững Thành cổ càng lâu thì ý đồ tái chiếm của địch càng thất bại. Hiểu rõ được điều đó, những đơn vị tác chiến, yểm trợ ở vòng ngoài như chúng tôi càng phải cẩn trọng trong từng hành động. Tất cả các đơn vị đều chung quyết tâm dù hy sinh đến đâu cũng phải bám trụ đến cùng” - ông Tân kể.
Sau 81 ngày đêm chiến đấu anh dũng, kiên cường, dù địch chiếm lại Thành cổ ngày 16/9/1972 khi ta rút quân, nhưng quân ta đã giữ được 85% diện tích của Quảng Trị. Lực lượng chiến lược của địch bị tổn thất nặng nề, buộc phải rút ra hoặc chuyển sang chiếm đóng để củng cố.
Những tấm huân, huy chương này đã được đánh đổi bằng một phần thanh xuân, xương máu nơi chiến trường năm xưa.
Ta đã thắng địch trong cuộc đọ sức quyết liệt nhất ở thời điểm quan trọng, góp phần xoay chuyển cục diện chiến trường, buộc đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán để ký Hiệp định Paris vào ngày 27/1/1973. Hiệp định được ký kết đánh dấu mốc hoàn thành nhiệm vụ chiến lược “đánh cho Mỹ cút”, tạo điều kiện, thời cơ tiến lên “đánh cho Ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Rút khỏi Thành cổ, ông Hoành bị thương nặng phải về tuyến sau điều trị; ông Tân tiếp tục cùng đồng đội chốt giữ vùng giải phóng. Năm 1975, hai ông cùng trực tiếp tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Những hội viên của Hội Chiến sỹ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 có tâm nguyện tìm kiếm, thu thập tư liệu để hoàn thành cuốn hồi ký về những năm tháng máu và hoa.
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, ông Hoành tiếp tục làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào, Campuchia đến năm 1980; ông Tân làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới phía Bắc đến năm 1989. Rời quân ngũ trở về quê nhà, hai ông đều có nhiều đóng góp cho phong trào tại địa phương với vai trò tổ trưởng tổ dân phố, cán bộ hội, đoàn thể.
Với những cống hiến cho Tổ quốc, hai người chiến sỹ Thành cổ năm xưa đã được tặng thưởng nhiều huân, huy chương cao quý. Ông Nguyễn Như Hoành được tặng: Huân chương Chiến công, Huân chương Chiến công giải phóng, Huân chương Chiến sỹ giải phóng, Huân chương Chiến sỹ vẻ vang, Huy chương Kháng chiến; danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp sư đoàn; bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Còn ông Nguyễn Thanh Tân vinh dự nhận: Huân chương Chiến sỹ giải phóng, Huân chương Chiến công, Huân chương Kháng chiến, danh hiệu Chiến sỹ thi đua toàn quân, bằng khen của các cấp ngành Trung ương, địa phương…
Hội Chiến sỹ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 trở thành nơi để những người lính năm xưa gặp gỡ, nhắc nhớ một thời thanh xuân đầy nhiệt huyết. Ảnh tư liệu.
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, ký ức về 81 ngày đêm bảo vệ thành cổ Quảng Trị vẫn hằn sâu trong tâm trí những người lính Hà Tĩnh năm xưa, bởi giữa lớp đất Thành cổ, giữa đáy sâu dòng sông Thạch Hãn vẫn còn đó máu xương của bao đồng đội - họ đã ra đi, đã hiến dâng tuổi xuân cho độc lập dân tộc và mãi mãi chẳng trở về. Điều đó cũng nhắc nhớ thế hệ hôm nay và mai sau: hòa bình không tự nhiên mà có, chúng ta phải biết trân quý, giữ gìn, biết phát huy trách nhiệm xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, hùng cường để xứng đáng với máu xương mà cha anh đã đổ xuống cho Tổ quốc hôm nay.
Khi đất nước đã hòa bình, những người chiến sỹ Thành cổ năm xưa lại cùng nhau hội ngộ trong một mái nhà chung là Hội Chiến sỹ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 tỉnh Hà Tĩnh. Hội được thành lập tháng 5/2015 với 2.180 hội viên, do ông Nguyễn Thanh Tân làm Chủ tịch; ông Nguyễn Như Hoành và ông Nguyễn Văn Tần (xá Cẩm Xuyên) cùng làm Phó Chủ tịch. Hội trở thành nơi gặp gỡ, giao lưu của những người lính. Thông qua hoạt động “Nghĩa tình đồng đội”, các hội viên đã thường xuyên hỗ trợ, động viên nhau trong cuộc sống.
Trong 10 năm qua, hội đã vận động, kêu gọi kinh phí xây dựng 8 ngôi nhà, trao 830 suất quà với tổng trị giá hàng tỷ đồng; phối hợp các gia đình liệt sỹ tìm kiếm, cung cấp thông tin 46 trường hợp, phối hợp chính quyền địa phương cất bốc 10 phần mộ liệt sỹ về địa phương; giúp đỡ đồng đội tìm kiếm, hoàn thiện hồ sơ để hưởng chế độ theo đúng quy định…
Kiều Minh
Nguồn Hà Tĩnh : https://baohatinh.vn/chien-sy-thanh-co-quang-tri-ke-chuyen-81-ngay-dem-cua-mua-he-do-lua-post295567.html