Trích đoạn tranh mô tả trận Mohacs. Nguồn: Britanica.
Giờ truy đuổi những kẻ trốn chạy rải rác cũng đã muộn màng, quân Ottoman quyết định qua đêm tại chiến trường: “Cho đến nửa đêm, tiếng kèn tôn vinh chiến thắng đã vang lên”.
Ngày hôm sau, Suleiman khảo sát trận địa với Ibrahim và Tể tướng thứ hai, sau đó ngồi lên ngai vàng trong căn lều màu đỏ, nhận lấy lời chúc mừng của các chức sắc hàng đầu và trao tặng nhiều phần thưởng cho sự cống hiến.
Hai nghìn cái đầu, bao gồm cả đầu của bảy giám mục Hungary, được chất thành đống như một kim tự tháp trước lều của nhà vua. Số quân địch thiệt mạng ước tính là 30.000 người, trong đó có 4.000 kị sĩ. Hungary không bao giờ hồi phục sau thất bại nặng nề này, một thất bại do tranh chấp nội bộ, sự táo bạo điên cuồng và sự bất lực hoàn toàn của các chỉ huy quân sự trong việc điều khiển pháo của mình.
Chiến thắng tại Mohacs càng làm gia tăng uy tín của Đại Tể tướng và tình cảm của Quốc vương dành cho ông. Đích thân Suleiman đặt trên khăn xếp của ông một chiếc lông diệc được trang trí bằng kim cương mà “ngả bóng xuống ông như đôi cánh của thần May mắn”.
Những người chứng kiến đều công nhận lòng dũng cảm và năng lực quân sự mà ông đã thể hiện trong trận chiến. Kemalpashazade ghi nhận công lao về chiến thắng của ông: “Thành tựu thắng lợi đáng kinh ngạc đó, bi thảm đối với những kẻ ngoại đạo nhưng lại là một trong những niềm vinh quang lớn nhất của Hồi giáo, là nhờ vào vị tiểu vương hiếu chiến, vị tể tướng luôn thận trọng Ibrahim Pasha, người có cây thương tựa như cái mỏ của con chim ưng dũng mãnh và thanh kiếm khát máu của ông giống như móng vuốt của con sư tử quả cảm”.
Nhà sử học so sánh ông với “mặt trời rọi chiếu tia sáng lên vũ trụ”, với con sư tử “háo hức truy đuổi con mồi” và với cây bách “có kiếm mọc từ thân cây”. Sự cường điệu này phản ánh quan điểm của các chức sắc xoay quanh Suleiman: một tương lai phi thường đang chờ đợi Đại Tể tướng, giờ đây gần như ngang bằng với quốc vương.
Nhưng chưa đầy mười năm sau, người đàn ông quyền lực nhất đế chế trở thành người dễ bị bóc trần nhất, và mọi người đều biết rõ điều đó.
Suleiman đã đích thân viết thư cho mẹ mình để kể cho bà nghe về chiến thắng vĩ đại của ông. Những bức thư được gửi đến Istanbul và các thống đốc tỉnh, với cùng một nội dung: vị vua kể lại cuộc hành quân tới sông Danube, công cuộc chuẩn bị và cả chính trận chiến rất dài dòng, vừa thơ mộng vừa đầy màu sắc.
Ông dành nhiều lời khen ngợi cho Ibrahim, “người anh hùng đã thể hiện tất cả lòng dũng cảm bẩm sinh của mình”. Ông tuyên bố trong phần kết bức thư rằng: “Sự hào phóng của Chúa đã ban cho đội quân vinh quang của ta một chiến thắng mà không một vị vua nào trước đó, cũng như các hãn vương toàn năng, thậm chí cả những người bạn đồng hành của Nhà tiên tri Mohammed, từng có được. Những gì còn sót lại của quốc gia vô thần đã bị nhổ tận gốc. Vinh quang trao gửi Chúa, Chúa tể của thế giới”.
Quả thực, thế giới Hồi giáo đã diễn giải chiến thắng của ông bằng chính những ngôn từ như vậy. Giống như tổ tiên của mình ở biên giới, Suleiman đã tham chiến vì vinh quang của đức tin Mohammed. “Chiến thắng vĩ đại đó là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất của đạo Hồi. Cho đến thời đại của chúng ta, chưa có vị vua nào giành được thắng lợi tương tự”.
Không chần chừ, Suleiman ra lệnh cho quân đội khởi hành; vào ngày 10 tháng 9, họ cắm trại trước Buda. Quốc vương chiếm đóng cung điện hoàng gia và ngay lập tức tuyên bố sẽ không gây thiệt hại gì cho người dân và tài sản của họ. Lệnh này hầu hết đã bị bỏ ngoài tai. Quân đội không chính quy đã lục soát và đốt cháy một phần thị trấn. Ibrahim đã cố gắng ngăn chặn điều này trong vô ích.
Cảnh cướp bóc và thậm chí sát hại tiếp tục diễn ra trong vài tuần ở các thị trấn lân cận. Chính Kemalpashazade cũng kể rằng: “Các kị binh đồn trú vùng biên giới đã nảy mình lên đống kho báu và xâu những viên hồng ngọc màu đỏ tựa hoa tulip thành vương miện; những người lính bộ binh Porte vác nhiều gác bị chiến lợi phẩm trên đầu đến nỗi mũ của họ trông như những bông hoa loa kèn bọc đầy vàng”.
Trước khi rời Buda, Ibrahim ra lệnh đưa tất cả súng ống, kho báu của lâu đài và các bức tượng đồng của Hercules, Diana và Apollo lên thuyền. Ông cũng mang theo kho sách từng thuộc về cựu vương, Matthias Corvinus, một trong những thư viện có giá trị nhất vào thời đó. Các quý tộc Hungary buộc phải đến đầu hàng Suleiman.
Vào cuối tháng 11, Quốc vương tiến vào Constantinople trước sự hoan nghênh nhiệt liệt của quần chúng. Ông chỉ để lại một đồn binh duy nhất ở Petrovaradin. Cuộc chiến lần này chỉ đơn thuần là một cuộc viễn chinh mang tính trừng phạt và một sự thất bại đối với những người theo đạo Cơ đốc, tuy nhiên cuộc chinh phạt chính thức sẽ không bị trì hoãn quá lâu.
Chiến thắng ở Mohacs có tác động to lớn đến châu Âu. Không có ai đến giúp đỡ vua Hungary cả, nhưng tất cả mọi người đều cảm thấy thống khổ. Trên thực tế, không ai ngoại trừ một số Cassandra quả quyết tin rằng, ngay cả sau khi Belgrade thất thủ, quân Ottoman sẽ tiến sâu vào Trung Âu đến vậy và chiếm được Buda.
Cả người Công giáo và Tin lành đều coi trận chiến là dấu hiệu của ý mệnh của thánh thần trừng phạt những người theo đạo Cơ đốc vì tội lỗi của họ.
Những người quan sát nhạy bén hơn thì cho rằng nguyên nhân thực sự hoàn toàn khác: sự chia rẽ, ích kỷ và hèn nhát của châu Âu Cơ đốc giáo, “đã làm giảm vị thế của châu Âu bởi những tranh chấp ngày càng gay gắt giữa các vương công Cơ đốc giáo”.
André Clot/Bách Việt Books-NXB Dân Trí