Nhân viên làm việc tại dây chuyền lắp ráp của cơ sở sản xuất của công ty dược phẩm AstraZeneca ở Thụy Điển vào năm 2022. Ảnh: Jonathan Nackstrand/AFP/Getty Images/File
AstraZeneca đang đầu tư 50 tỷ đô la để mở rộng hoạt động sản xuất thuốc tại Mỹ. Johnson & Johnson rót 55 tỷ đô la vào sản xuất và nghiên cứu trong nước. Eli Lilly cho biết họ sẽ chi 27 tỷ đô la để xây dựng bốn nhà máy sản xuất mới tại đây. Theo hai nhà phân tích trong ngành, tổng số tiền đầu tư dự kiến vượt quá 250 tỷ đô la.
"Thêm một chiến thắng nữa cho ngành sản xuất của Mỹ. Cam kết 50 tỷ đô la của AstraZeneca nhằm mở rộng hoạt động sản xuất, nghiên cứu và phát triển tại Mỹ cho thấy chiến lược thuế quan của chúng ta đang phát huy hiệu quả", Bộ trưởng Thương mại Howard Lutnick đăng trên X vào cuối tháng 7.
Ông Howard Lutnick cho biết khoản đầu tư này sẽ mang lại việc làm lương cao cho người lao động tại các bang Virginia, Indiana, Texas và trên khắp đất nước, đồng thời củng cố chuỗi cung ứng của Mỹ.
Tổng thống Mỹ Donald Trump hiện đang sử dụng chính sách thuế quan để buộc các nhà sản xuất thuốc phải tăng sản lượng trong nước, đồng thời thúc đẩy các công ty dược phẩm giảm giá, một trong những mục tiêu lâu dài.
Tuy nhiên, các chuyên gia bày tỏ lo ngại động thái của các công ty dược phẩm sẽ làm giảm phụ thuộc của Mỹ vào các nguồn cung cấp nước ngoài đối với các thành phần và thuốc dược phẩm quan trọng nhưng lại không có khả năng giảm chi phí cho người tiêu dùng Mỹ.
Chuỗi cung ứng phức tạp
Ngành công nghiệp dược phẩm đang mang đến mạng lưới toàn cầu, với các thành phần và thuốc thành phẩm được sản xuất tại nhiều nơi trên khắp thế giới.
Tính kinh tế của việc sản xuất thuốc thương hiệu và thuốc generic rất khác nhau, trong đó giá mà người tiêu dùng Mỹ cuối cùng phải trả được quyết định bởi nhiều yếu tố khác nhau.
Thuốc Generic được biết đến là bản sao của thuốc biệt dược với thành phần hoạt chất tương tự giống nhau.
Các nhà sản xuất dược phẩm Mỹ và nước ngoài cũng đã sản xuất nhiều loại thuốc tại Mỹ và thường xuyên đầu tư vào hoạt động tại đây trong nhiều năm.
Viễn cảnh về thuế quan chắc chắn đã thúc đẩy một số nhà sản xuất thương hiệu chuyển hoạt động sản xuất nhiều hơn sang Mỹ.
Hikma Pharmaceuticals USA cho biết sẽ đầu tư 1 tỷ đô la vào năm 2030 để mở rộng năng lực sản xuất và nghiên cứu phát triển tại một số địa điểm ở Mỹ.
Trong khi đó, Amphastar Pharmaceuticals cho biết sẽ tăng gấp bốn lần sản lượng trong vòng ba đến 5 năm tới. Cả hai đều sản xuất thuốc tiêm vô trùng, cùng nhiều sản phẩm khác.
Cân nhắc về chi phí
Việc tăng cường sản xuất trong nước sẽ giúp các công ty dược phẩm có thương hiệu tránh được thuế quan, mặc dù có thể phải trả một số khoản thuế nếu nhập khẩu nguyên liệu dược phẩm từ các quốc gia khác.
Tuy nhiên, các chuyên gia nhận định việc sản xuất nhiều thuốc hơn tại Mỹ không có nghĩa là các sản phẩm sẽ rẻ hơn cho bệnh nhân.
Theo Stephen Farrelly, người đứng đầu lĩnh vực chăm sóc sức khỏe toàn cầu của ING, quá trình sản xuất nhiều thuốc hơn tại Mỹ sẽ đẩy chi phí sản xuất cao hơn.
Thêm vào đó, giá cả mà người tiêu dùng phải trả hầu hết được điều chỉnh bởi hệ thống y tế phức tạp của quốc gia, bao gồm các nhà sản xuất, công ty bảo hiểm và các nhà quản lý phúc lợi dược phẩm, được gọi là PBM.
Trong bối cảnh đó, các nhà sản xuất thuốc thương hiệu nhiều khả năng phải tìm cáchđể bù đắp một phần chi phí tăng thêm.
Nhiều chuyên gia tin rằng họ sẽ phải chuyển ít nhất một phần gánh nặng sang người tiêu dùng - những người cuối cùng có thể cảm nhận được điều đó qua chi phí tự trả tại quầy thuốc hoặc qua phí bảo hiểm hàng tháng.
Đối với loại thuốc generic, quá trình chuyển nhiều hoạt động sản xuất sang Mỹ sẽ kéo theo chi phí sản xuất cao hơn, điều mà các công ty này không đủ khả năng chi trả.
Do đó, chính sách thuế quan một lần nữa có thể thúc đẩy các nhà sản xuất thuốc rút khỏi thị trường Mỹ, làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu hụt.
Theo CNN
Link bài viết gốc
MINH DƯƠNG